TÀI LIỆU CỘNG ĐẢNG
Chủ tịch Hồ Chí Minh, thời thơ ấu tên là Nguyễn Sinh Cung (1), sinh ngày
19-5-1890, tại quê ngoại là làng Hoàng Trù (còn gọi là làng Trùa), xã Chung Cự,
tổng Lâm Thịnh, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An (nay là xã Kim Liên, huyện Nam Đàn,
tỉnh Nghệ An), trong một gia đình nhà Nho, nguồn gốc nông dân.
Cha của Người là Nguyễn Sinh Sắc
(Nguyễn Sinh Huy), sinh năm 1862, mất năm 1929, quê ở làng Kim Liên (thường
gọi là làng Sen) cùng thuộc xã Chung Cự, nay là xã Kim Liên, huyện Nam Đàn,
tỉnh Nghệ An. Ông Nguyễn Sinh Sắc xuất thân từ gia đình nông dân, mồ côi cha mẹ
sớm, từ nhỏ đã chịu khó làm việc và ham học. Vì vậy, ông được nhà Nho Hoàng
Xuân Đường ở làng Hoàng Trù xin họ Nguyễn Sinh đem về nuôi. Là người ham học và
thông minh, lại được nhà Nho Hoàng Xuân Đường hết lòng chăm sóc, dạy dỗ, ông
thi đỗ Phó bảng và sống bằng nghề dạy học. Đối với các con, ông Sắc giáo dục ý
thức lao động và học tập để hiểu đạo lý làm người. Khi còn trẻ, như nhiều người
có chí đương thời, ông dùi mài kinh sử, quyết chí đi thi. Nhưng càng học, càng
hiểu đời, ông nhận thấy: “Quan trường thị nô lệ trung chi nô lệ, hựu nô lệ”,
nghĩa là “Quan trường là nô lệ trong những người nô lệ, lại càng nô lệ hơn”. Do
đó, sau khi đỗ Phó bảng, được trao một chức quan nhỏ, nhưng vốn có tinh thần
yêu nước, khẳng khái, ông thường chống đối lại bọn quan trên và thực dân Pháp.
Vì vậy, sau một thời gian làm quan, ông bị chúng cách chức và thải hồi. Ông vào
Nam Bộ làm thầy thuốc, sống cuộc đời thanh bạch cho đến lúc qua đời.
Mẹ của Người là Hoàng Thị Loan,
sinh năm 1868, mất năm 1901, là một phụ nữ cần mẫn, đảm đang, đôn hậu, sống
bằng nghề làm ruộng và dệt vải, hết lòng thương yêu và chăm lo cho chồng con.
Chị của Người là Nguyễn Thị Thanh,
còn có tên là Nguyễn Thị Bạch Liên, sinh năm 1884, mất năm 1954. Anh của Người
là Nguyễn Sinh Khiêm, còn có tên là Nguyễn Tất Đạt, sinh năm 1888, mất
năm 1950. Em của Người là bé Xin, sinh năm 1900, vì ốm yếu nên sớm qua
đời. Các anh chị của Người lớn lên đều chịu ảnh hưởng của ông bà, cha mẹ, chăm
làm việc và rất thương người, đều là những người yêu nước, đã tham gia phong
trào yêu nước và bị thực dân Pháp và triều đình phong kiến bắt bớ tù đày.
Từ lúc ra đời đến tuổi lên 5, Nguyễn
Sinh Cung sống ở quê nhà trong sự chăm sóc đầy tình thương yêu của ông bà ngoại
và cha mẹ, lớn lên trong truyền thống tốt đẹp của quê hương, hiếu học, cần cù
trong lao động, tình nghĩa trong cuộc sống và bất khuất trước kẻ thù. Nguyễn
Sinh Cung ham hiểu biết, thích nghe chuyện và hay hỏi những điều mới lạ, từ các
hiện tượng thiên nhiên đến những chuyện cổ tích mà bà ngoại và mẹ thường kể.
Năm 1895, Nguyễn Sinh Cung cùng với
gia đình chuyển vào Huế lần thứ nhất, khi ông Nguyễn Sinh Sắc vào Kinh thi hội.
Từ cuối năm 1895 đến đầu năm 1901, Nguyễn Sinh Cung sống cùng cha mẹ tại Huế, ở
nhờ nhà một người quen ở trong thành nội (nay là số nhà 112, đường Mai Thúc
Loan). Đó là những năm tháng gia đình ông Sắc sống trong cảnh gieo neo, thiếu
thốn. Bà Hoàng Thị Loan làm nghề dệt vải, còn ông Sắc ngoài thời gian học, phải
đi chép chữ thuê để kiếm sống, để học và dự thi.
Năm 1898, ông Nguyễn Sinh Sắc dự thi
hội lần thứ hai nhưng vẫn không đỗ. Cuộc sống gia đình càng thêm chật vật khó
khăn. Gần cuối năm 1898, theo lời mời của ông Nguyễn Sĩ Độ, ông Nguyễn Sinh Sắc
về dạy học cho một số học sinh ở làng Dương Nỗ, tại ngôi nhà của ông Nguyễn Sĩ
Khuyến (em trai ông Nguyễn Sĩ Độ), xã Phú Dương, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa
Thiên, cách thành phố Huế 6 km. Nguyễn Sinh Cung cùng anh theo cha về đây và
bắt đầu học chữ Hán tại lớp học của cha.
Cuối năm 1900, ông Nguyễn Sinh Sắc
được cử đi coi thi ở trường thi hương Thanh Hoá. Ông đưa Nguyễn Sinh Khiêm đi
cùng, còn Nguyễn Sinh Cung thì về sống với mẹ trong nội thành Huế. Bà Loan sinh
bé Xin trong hoàn cảnh khó khăn túng thiếu nên lâm bệnh và qua đời. Chẳng bao
lâu sau, bé Xin quá yếu cũng theo mẹ. Mới 11 tuổi Nguyễn Sinh Cung đã chịu nỗi
đau mất mẹ và em.
Hơn 5 năm sống ở kinh thành Huế,
Nguyễn Sinh Cung thấy được nhiều điều mới lạ. So với quê hương xứ Nghệ, Huế có
nhiều nhà cửa to đẹp, nhiều cung điện uy nghiêm. Nguyễn Sinh Cung cũng thấy ở
Huế có nhiều lớp người, những người Pháp thống trị nghênh ngang, hách dịch và
tàn ác; những ông quan Nam triều bệ vệ trong những chiếc áo gấm, hài nhung, mũ
cánh chuồn, nhưng khúm núm rụt rè; còn phần đông người lao động thì chịu chung
số phận đau khổ và tủi nhục. Đó là những người nông dân rách rưới mà người Pháp
gọi là bọn nhà quê, những phu khuân vác, những người cu ly kéo xe tay, những
trẻ em nghèo khổ, lang thang trên đường phố… Những hình ảnh đó đã in sâu vào ký
ức của Nguyễn Sinh Cung.
Được tin vợ qua đời, ông Nguyễn Sinh
Sắc vội trở lại Huế, đưa con về quê. Sau khi thu xếp cuộc sống cho các con,
được sự động viên của bà con trong họ ngoài làng, ông Nguyễn Sinh Sắc lại vào
Huế dự kỳ thi hội năm Tân Sửu. Lần này đi thi ông mang tên mới là Nguyễn Sinh
Huy.
Tháng 5-1901, ông Nguyễn Sinh Huy
đậu Phó bảng khoa thi hội Tân Sửu. Khoảng tháng 9-1901, Nguyễn Sinh Cung cùng
gia đình chuyển về sống ở quê nội. Ông Nguyễn Sinh Huy làm lễ vào làng cho hai
con trai với tên mới là Nguyễn Tất Đạt (Sinh Khiêm) và Nguyễn Tất Thành (Sinh
Cung).
Tại quê nhà, Nguyễn Tất Thành được
gửi đến học chữ Hán với các thầy giáo Hoàng Phan Quỳnh, Vương Thúc Quý và sau
là thầy Trần Thân. Các thầy đều là những người yêu nước. Nguyễn Tất Thành được
nghe nhiều chuyện qua các buổi bàn luận thời cuộc giữa các thầy với các sĩ phu
yêu nước. Nguyễn Tất Thành dần dần hiểu được thời cuộc và sự day dứt của các
bậc cha chú trước cảnh nước mất, nhà tan. Trong những người mà ông Sắc thường
gặp gỡ có ông Phan Bội Châu. Giống như nhiều nhà Nho yêu nước lúc bấy giờ, Phan
Bội Châu cũng day dứt trước hiện tình đất nước và số phận của dân tộc. Con
người nhiệt huyết ấy trong lúc rượu say vẫn thường ngâm hai câu thơ của Viên
Mai:
“Mỗi phạn bất vong duy trúc bạch,
Lập thân tối hạ thị văn chương”.
Nghĩa là:
“Mỗi bữa (ăn) không quên ghi sử
sách,
Lập thân hèn nhất ấy (là) văn chương”.
Câu thơ đã tác động nhiều đến Nguyễn
Tất Thành và góp phần định hướng cho người thiếu niên sớm có hoài bão lớn.
Lớn dần lên, càng đi vào cuộc sống
của người dân địa phương, Nguyễn Tất Thành càng thấm thía thân phận cùng khổ
của người dân mất nước. Đó là nạn thuế khoá nặng nề cùng với việc nhân dân bị
bắt làm phu xây dựng đường trong tỉnh, làm đường từ Cửa Rào, đi Xiêng Khoảng
(Lào) nơi rừng thiêng nước độc. Những cuộc ra đi không có ngày về, nhân dân lầm
than, ai oán.
Mùa xuân năm 1903, Nguyễn Tất Thành
theo cha đến xã Võ Liệt, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An và tiếp tục học chữ
Hán. Tại đây Nguyễn Tất Thành lại có dịp nghe chuyện thời cuộc của các sĩ phu
đến đàm đạo với cha mình.
Cuối năm 1904, Nguyễn Tất Thành theo
cha sang làng Du Đồng, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh, khi ông Sắc đến đây dạy
học. Ngoài thời gian học tập, Nguyễn Tất Thành thường theo cha đến các vùng
trong tỉnh như làng Đông Thái, quê hương của Phan Đình Phùng, thăm các di tích
thành Lục niên, miếu thờ La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp, v.v..
Tháng 7-1905, Nguyễn Tất Thành theo
cha đến huyện Kiến Xương, Thái Bình, trong dịp ông Nguyễn Sinh Sắc đi gặp các
sĩ phu ở vùng đó.
Khoảng tháng 9- 1905, Nguyễn Tất
Thành và Nguyễn Tất Đạt được ông Nguyễn Sinh Huy xin cho theo học lớp dự bị
(préparatoire) Trường tiểu học Pháp – bản xứ ở thành phố Vinh. Chính tại ngôi
trường này, Nguyễn Tất Thành lần đầu tiên được tiếp xúc với khẩu hiệu Tự do
– Bình đẳng – Bác ái.
Những chuyến đi này giúp Nguyễn Tất
Thành mở rộng thêm tầm nhìn và tầm suy nghĩ. Anh nhận thấy ở đâu người dân cũng
lam lũ đói khổ, nên dường như trong họ đang âm ỉ những đốm lửa muốn thiêu cháy
bọn áp bức bóc lột thực dân phong kiến. Trước cảnh thống khổ của nhân dân, anh
đã sớm “có chí đuổi thực dân Pháp giải phóng đồng bào”.
Sau nhiều năm lần lữa việc đi làm
quan, cuối tháng 5-1906, ông Nguyễn Sinh Huy vào kinh đô nhậm chức. Nguyễn Tất
Thành và anh trai cùng đi theo cha. Vào Huế, Nguyễn Tất Thành cùng với anh trai
được cha cho đi học Trường tiểu học Pháp – Việt tỉnh Thừa Thiên, lớp dự bị
(cours préparatoire, tháng 9-1906); lớp sơ đẳng (cours élémentaire, tháng
9-1907).
Ở Huế, lần này xảy ra một sự kiện
đáng ghi nhớ trong cuộc đời của Nguyễn Tất Thành. Tháng 4-1908, anh tham gia cuộc
biểu tình chống thuế của nông dân tỉnh Thừa Thiên, khởi đầu cho cuộc tranh đấu
suốt đời Người vì quyền lợi của nhân dân lao động. Vì những hoạt động yêu nước,
tham gia cuộc đấu tranh của nông dân, Nguyễn Tất Thành bị thực dân Pháp để ý
theo dõi. Ông Nguyễn Sinh Huy cũng bị chúng khiển trách vì đã để cho con trai
có những hoạt động bài Pháp.
Tuy nhiên, tháng 8-1908, Nguyễn Tất
Thành, với tên gọi Nguyễn Sinh Côn, vẫn được ông Hiệu trưởng Quốc học Sukê
(Chouquet) tiếp nhận vào học tại trường. Tháng 9-1908, Nguyễn Tất Thành vào lớp
trung đẳng (lớp nhì) (cours moyen) tại Trường Quốc học Huế.
Trong thời gian học tại Trường Quốc
học Huế, Nguyễn Tất Thành được tiếp xúc nhiều với sách báo Pháp. Các thầy giáo
của Trường Quốc học Huế có người Pháp và cả người Việt Nam, cũng có những người
yêu nước như thầy Hoàng Thông, thầy Lê Văn Miến. Chính nhờ ảnh hưởng của các
thầy giáo yêu nước và sách báo tiến bộ mà anh được tiếp xúc, ý muốn đi sang
phương Tây tìm hiểu tình hình các nước và học hỏi những thành tựu của văn minh
nhân loại từng bước lớn dần trong tâm trí của Nguyễn Tất Thành. Cùng thời gian
đó, Nguyễn Tất Thành còn được nghe kể về những hành động của những ông vua yêu
nước như Thành Thái, Duy Tân và những bàn luận về con đường cứu nước trong các
sĩ phu yêu nước.
Khoảng tháng 6-1909, Nguyễn Tất
Thành rời Trường Quốc học Huế theo cha vào Bình Định, khi ông được bổ nhiệm
chức Tri huyện Bình Khê. Trong thời gian ở Bình Khê, Nguyễn Tất Thành thường
được cha dẫn đi thăm các sĩ phu trong vùng và thăm di tích lịch sử vùng Tây
Sơn.
Cuối năm 1909, Nguyễn Tất Thành được
cha gửi học tiếp chương trình lớp cao đẳng (lớp nhất – cours supérieur), tại
Trường tiểu học Pháp – Việt Quy Nhơn. Ông Nguyễn Sinh Sắc hiểu khả năng và chí
hướng người con trai thứ của mình nên đã tạo điều kiện cho anh được tiếp tục
học lên.
Tháng 6-1910, Nguyễn Tất Thành hoàn
thành chương trình tiểu học. Sau khi nghe tin cha bị cách chức Tri huyện Bình
Khê, bị triệu hồi về Kinh, anh không theo cha trở về Huế mà quyết định đi tiếp
xuống phía Nam. Trên đường từ Quy Nhơn vào Sài Gòn, Nguyễn Tất Thành dừng chân
ở Phan Thiết. Ở đây anh xin vào làm trợ giáo (moniteur), được giao dậy một số
môn, đồng thời phụ trách các hoạt động ngoại khoá của Trường Dục Thanh, một
trường tư thục do các ông Nguyễn Trọng Lội và Nguyễn Quý Anh (con trai cụ
Nguyễn Thông, một nhân sĩ yêu nước) thành lập năm 1907. Ngoài giờ lên lớp,
Nguyễn Tất Thành tìm những cuốn sách quý trong tủ sách của cụ Nguyễn Thông để
đọc. Lần đầu tiên anh được tiếp cận với những tư tưởng tiến bộ của các nhà khai
sáng Pháp như Rútxô (Rousseau), Vônte (Voltair), Môngtétxkiơ (Montesquieu). Sự
tiếp cận với những tư tưởng mới đó càng thôi thúc anh tìm đường đi ra nước
ngoài.
Tháng 2-1911, Nguyễn Tất Thành rời
Phan Thiết vào Sài Gòn. Anh ở tạm tại trụ sở các chi nhánh của Liên Thành công
ty đặt tại Sài Gòn, như nhà số 3, đường Tổng đốc Phương (nay là số 5, đường
Châu Văn Liêm); nhà số 128, Khánh Hội. Ở Sài Gòn một thời gian ngắn, anh thường
đi vào các xóm thợ nghèo, làm quen với những thanh niên cùng lứa tuổi. Ở đâu
anh cũng thấy nhân dân lao động bị đọa đày, khổ nhục. Nguyễn Tất Thành cũng hay
đến những cửa hàng ở gần cảng Sài Gòn, nơi chuyên nhận giặt là quần áo cho các
thủy thủ trên tàu Pháp, để tìm cách xin việc làm trên tàu, thực hiện ước mơ có
những chuyến đi xa.
Nguyễn Sinh Cung – Nguyễn Tất Thành
sinh ra và lớn lên khi nước ta bị thực dân Pháp xâm lăng và đã trở thành một
nước thuộc địa nửa phong kiến. Nhân dân bị nô lệ, đói khổ, lầm than. Quê hương
có truyền thống đấu tranh anh dũng, chống giặc ngoại xâm. Thời gian 10 năm sống
ở Kinh đô Huế – trung tâm văn hóa, chính trị của đất nước, tiếp xúc với nền văn
hóa mới, với phong trào Duy Tân, đã cho Nguyễn Tất Thành nhiều hiểu biết mới.
Nhìn lại các phong trào yêu nước như phong trào Cần Vương, mà tiêu biểu là cuộc
khởi nghĩa Hương Khê do cụ Phan Đình Phùng lãnh đạo; Phong trào Đông Du của cụ
Phan Bội Châu; Phong trào Đông Kinh nghĩa thục; cuộc khởi nghĩa Yên Thế do cụ
Hoàng Hoa Thám lãnh đạo; cuộc vận động cải cách của cụ Phan Châu Trinh và phong
trào chống thuế của nông dân Trung Kỳ, Anh rất khâm phục và coi trọng các bậc
tiền bối, nhưng Nguyễn Tất Thành không đi theo con đường đó. Thực tiễn thất bại
của các phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX đã đặt ra nhiều câu hỏi và tác động
đến chí hướng của Nguyễn Tất Thành, để rồi anh có một quyết định chính xác và
táo bạo là xuất dương tìm đường cứu nước.
(1) Trong một bài viết của Chủ tịch
Hồ Chí Minh, năm 1954, Người ghi tên còn nhỏ của mình là Nguyễn Sinh Côn (Bản
chụp bút tích, lưu Kho Tư liệu Bảo tàng Hồ Chí Minh).
(Theo sách “Hồ Chí Minh tiểu sử”;
tác giả: Bảo tàng Hồ Chí Minh, NXB Chính trị Quốc gia – Hà Nội, 2008. Bản đánh máy theo
Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam dangcongsan.vn).
Be the first to like this.
Bài này được đăng lúc 14:37 ngày Thứ
Sáu, 11 Tháng Mười Hai 2009 trong mục Tiểu sử - Cuộc đời và Sự nghiệp.
Bạn có thể theo dõi phản hồi của bài này với dòng phản hồi RSS 2.0. Bạn có thể gửi phản hồi, hoặc trackback từ trang web
của bạn.
Chương
2: Tìm đường cứu nước (1911-1920)
Ngày 3-6-1911, Nguyễn Tất Thành lấy
tên là Văn Ba xin làm phụ bếp trên tàu Đô đốc Latútsơ Tơrêvin (Amiral Latouche
Tréville), một tàu lớn vừa chở hàng vừa chở khách của hãng Năm Sao đang chuẩn
bị rời cảng Sài Gòn đi Mácxây (Marseille), Pháp.
Ngày 5-6-1911, trên con tàu Đô đốc
Latútsơ Tơrêvin, từ bến cảng Nhà Rồng, thành phố Sài Gòn (nay là thành phố Hồ
Chí Minh), Nguyễn Tất Thành rời Tổ quốc ra đi tìm đường cứu nước.
Về mục đích ra đi của mình, năm 1923
Người đã trả lời một nhà báo Nga rằng:
“Khi tôi độ mười ba tuổi, lần đầu
tiên tôi được nghe ba chữ Pháp Tự do, Bình đẳng, Bác ái… Tôi rất muốn làm quen
với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những chữ ấy”(1).
Một lần khác trả lời một nhà văn Mỹ, Người nói: “Nhân dân Việt Nam trong đó có
ông cụ thân sinh ra tôi, lúc này thường tự hỏi nhau ai sẽ là người giúp mình
thoát khỏi ách thống trị của Pháp. Người này nghĩ là Anh, có người lại cho là
Mỹ. Tôi thấy phải đi ra nước ngoài xem cho rõ. Sau khi xem xét họ làm ăn ra
sao, tôi sẽ trở về giúp đồng bào tôi”(2).
Theo hành trình của tàu, Nguyễn Tất
Thành đã dừng chân ở cảng Mácxây, cảng Lơ Havơrơ (Le Havre) của Pháp. Những
ngày đầu tiên trên đất Pháp, được chứng kiến ở Pháp cũng có những người nghèo
như ở Việt Nam, anh nhận thấy có những người Pháp trên đất Pháp tốt và lịch sự
hơn những tên thực dân Pháp ở Đông Dương.
Không dừng lại ở Pháp, năm 1912,
Nguyễn Tất Thành làm thuê cho một chiếc tàu của hãng Sácgiơ Rêuyni đi vòng
quanh châu Phi, đã có dịp dừng lại ở những bến cảng của một số nước như Tây Ban
Nha, BồĐào Nha, Angiêri, Tuynidi, Cônggô, Đahômây, Xênêgan, Rêuyniông… Đến đâu
anh cũng thấy cảnh khổ cực của người lao động dưới sự áp bức bóc lột dã man, vô
nhân đạo của bọn thống trị. Một trong những cảnh ấy anh đã trông thấy ở Đaca
(Dacar): “Đến Đaca, bể nổi sóng rất dữ. Tàu không thể vào bờ. Cũng không thể
thả canô xuống vì sóng rất to. Để liên lạc với tàu, bọn Pháp trên bờ bắt những
người da đen phải bơi ra chiếc tàu. Một, hai, ba, bốn người da đen nhảy xuống
nước. Người này đến người kia, họ bị sóng bể cuốn đi”(3). Cảnh tượng đó làm cho
Nguyễn Tất Thành rất đau xót. Anh liên tưởng một cách tự nhiên đến số phận của
người dân Việt Nam, đồng bào khốn khổ của anh. Họ cũng là nạn nhân của sự hung
ác, vô nhân đạo của bọn thực dân. Những sự việc như vậy diễn ra khắp nơi trên
đường anh đi qua, tạo nên ở anh mối đồng cảm sâu sắc với số phận chung của nhân
dân các nước thuộc địa.
Nguyễn Tất Thành theo con tàu tiếp
tục đi qua Máctiních (Martinique) (Trung Mỹ), Urugoay và Áchentina (Nam Mỹ) và
dừng lại ở nước Mỹ cuối năm 1912. Tại đây, anh có dịp tìm hiểu cuộc đấu tranh
giành độc lập của nhân dân Mỹ với bản Tuyên ngôn độc lập nổi tiếng trong
lịch sử. Anh vừa đi làm thuê để kiếm sống vừa tìm hiểu đời sống của những người
lao động Mỹ. Anh đã đến thăm quận Brúclin (Brooklin) của thành phố Niu Oóc (New
York). Anh đi xe điện ngầm đến khu Háclem (Harlem) để tìm hiểu đời sống và cuộc
đấu tranh chống phân biệt chủng tộc của những người da đen.
Với mục đích ra đi để tìm hiểu, do
vậy, trong thời gian tàu dỡ hàng và lấy hàng, Nguyễn Tất Thành đã tranh thủ lúc
rỗi rãi đi xem xét nhiều nơi, từ những khu phố hoa lệ nổi tiếng thế giới với
những ngôi nhà cao chọc trời ở Niu Oóc đến những ngôi nhà ổ chuột ở khu Háclem.
Dừng chân ở nước Mỹ không lâu nhưng
Nguyễn Tất Thành đã sớm nhận ra bộ mặt thật của đế quốc Hoa Kỳ. Đằng sau khẩu
hiệu “cộng hòa dân chủ” của giai cấp tư sản Mỹ là những thủ đoạn bóc lột nhân
dân lao động rất tàn bạo. Anh cảm thông sâu sắc với đời sống của người dân lao
động da đen và rất căm giận bọn phân biệt chủng tộc, hành hình người da đen một
cách man rợ, mà sau này anh đã viết lại trong bài báo Hành hình kiểu Linsơ.
Khoảng đầu năm 1913, Nguyễn Tất
Thành theo tàu rời Mỹ trở về Lơ Havơrơ, sau đó sang Anh. Đến nước Anh, để kiếm
tiền sinh sống, anh nhận cào tuyết cho một trường học, rồi làm thợ đốt lò. Công
việc hết sức nặng nhọc, nhưng sau mỗi ngày anh đều tranh thủ thời gian học
tiếng Anh.
Từ nước Anh, Nguyễn Tất Thành gửi thư
liên hệ với cụ Phan Châu Trinh, lúc này đang ở Pháp, thông báo tình hình sinh
hoạt, học tập của mình, hỏi thăm tình hình người thân của cụ Phan. Trong thư
Nguyễn Tất Thành cũng bày tỏ và thăm dò ý kiến của cụ Phan về tình hình thời
cuộc.
Cuối năm 1913, sau hai tuần nghỉ
việc vì bị cảm, Nguyễn Tất Thành đến làm thuê ở khách sạn Đraytơn Cơớc, đại lộ
Đraytơn, khu Oét Ilinh (Drayton Court, Drayton Av., West Ealing), phía tây Luân
Đôn.
Một thời gian sau, Nguyễn Tất Thành
lại chuyển sang làm phụ bếp ở khách sạn Cáclơtơn (Carlton), phố Hây Makét, một
khách sạn sang nổi tiếng ở Luân Đôn. Nguyễn Tất Thành làm việc dưới sự điều
khiển của vua bếp Étcốpphie (Escophier), một người Pháp có tư tưởng tiến bộ.
Nguyễn Tất Thành được giao nhiệm vụ thu dọn và rửa bát, đĩa, nồi, chảo, v.v..
Những người giàu có khi ăn uống rất lãng phí, bỏ thừa khá nhiều, có khi cả một
phần tư con gà. Anh gói lại những miếng ngon đưa cho nhà bếp. Ông Étcốpphie chú
ý tới việc làm đó và hỏi anh: “Tại sao anh không quẳng thức ăn thừa vào thùng như
những người kia?
- Không nên vứt đi. Ông có thể cho
người nghèo những thứ ấy.
- Ông bạn trẻ của tôi ơi, anh nghe
tôi. Ông Étcốpphie vừa nói vừa cười và có vẻ bằng lòng. Tạm thời anh hãy gác ý
nghĩ cách mạng của anh lại một bên, và tôi sẽ dạy cho anh cách làm bếp, làm
ngon anh sẽ được nhiều tiền. Anh bằng lòng chứ?”(4).
Từ đó, ông chuyển anh vào chỗ làm
bánh với mức lương cao hơn.
Tại Anh, Nguyễn Tất Thành đã hăng
hái tham dự những cuộc diễn thuyết ngoài trời của nhiều nhà chính trị và triết
học, tham gia Hội những người lao động hải ngoại, ủng hộ cuộc đấu tranh yêu
nước của nhân dân Airơlen. Cũng trong thời gian này anh được đọc một tờ báo Anh
đưa tin về ông Terence Mac Swiney, Thị trưởng thành phố (Cork), nhà đại ái quốc
Airơlen, đấu tranh chống đế quốc Anh, bị bắt. Trong tù ông đã tuyệt thực. Ông
nằm nghiêng một phía, không ăn, không cử động hơn 40 ngày và hy sinh. Hàng ngàn
người Airơlen lưu vong nối nhau thành hàng dài trên đường phố Luân Đôn đưa tiễn
ông Mac Swiney về yên nghỉ tại Cork. Nguyễn Tất Thành hết sức xúc động và cảm
phục tinh thần bất khuất của ông: “Can đảm biết bao! Dũng cảm biết bao! Một dân
tộc có những người như ông Cúc sẽ không bao giờ đầu hàng”(5).
Giữa lúc cuộc Chiến tranh thế giới
thứ nhất diễn ra ác liệt, tình hình Đông Dương đang có những biến động, vào
khoảng cuối năm 1917, Nguyễn Tất Thành từ Anh trở lại Pháp để có điều kiện trực
tiếp hoạt động trong phong trào Việt kiều và phong trào công nhân Pháp.
Trở lại Pháp, đến Thủ đô Pari, lúc
đầu Nguyễn Tất Thành ở phố Sarôn (Charonne) trong một thời gian ngắn; từ ngày 7
đến 11-6-1919 ở nhà số 10, phố Xtốckhôm (Stokholm); ngày 12-6-1919, chuyển đến
ở nhà số 56 phố Mơxiên lơ Pơranhxơ (Monsieur le Prince); tháng 7-1919, ở nhà số
6, phố Vila đê Gôbơlanh (Villa des Gobelins), quận 13; ngày 14-7-1921, chuyển
đến ở nhà số 12, phố Buyô. Trong tháng 7-1921, Nguyễn Tất Thành chuyển đến nhà
số 9, ngõ Côngpoanh (Compoint), quận 17, một trong những khu lao động nghèo
nhất của Thủ đô nước Pháp. Ngày 14-3-1923, anh đến ở nhà số 3, phố Mácsê đê
Patơriácsơ.
Thời gian đầu khi tới Pari, chưa có
giấy tờ hợp pháp, Nguyễn Tất Thành được các đồng chí trong Ban đón tiếp những
người lao động nhập cư của Đảng Xã hội Pháp giúp đỡ. Trong khi chờ các đồng chí
tìm cho giấy tờ quân dịch hợp pháp, anh phải sống ẩn náu, hạn chế đi lại để
tránh sự kiểm tra của cảnh sát. Cuộc sống của anh lúc đó gặp rất nhiều khó
khăn. Vừa hoạt động chính trị, vừa phải kiếm sống một cách chật vật, khi thì
làm thuê cho một hiệu ảnh, khi thì vẽ thuê cho một xưởng đồ cổ mỹ nghệ Trung
Hoa, nhưng anh vẫn kiên trì, hăng say học tập và hoạt động. Anh thường xuyên
gặp gỡ với những người Việt Nam ở Pháp, có tư tưởng và khuynh hướng tiến bộ như
Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường. Nguyễn Ái Quốc từng bước tham gia vào cuộc
đấu tranh của phong trào công nhân và lao động Pháp.
Khoảng đầu năm 1919, Nguyễn Tất
Thành gia nhập Đảng Xã hội Pháp. Khi được hỏi vì sao vào Đảng, anh trả lời: Vì
đây là tổ chức duy nhất theo đuổi lý tưởng cao quý của Đại cách mạng Pháp: “Tự
do, Bình đẳng, Bác ái”.
Năm 1918, Chiến tranh thế giới thứ
nhất kết thúc. Ngày 18-6-1919, đại biểu các nước đế quốc tham gia chiến tranh
họp Hội nghị ở Vécxây (Versailles) (Pháp). Hội nghị này còn gọi là Hội nghị hoà
bình Pari, nhưng thực chất đó là nơi chia phần giữa các nước đế quốc thắng trận
và trút hậu quả chiến tranh lên đầu nhân dân các nước thua trận và các dân tộc
bị áp bức. Văn kiện chính của hội nghị là Hiệp ước Vécxây xác định sự
thất bại của nước Đức và các nước Đồng minh của Đức, phân chia lại bản đồ thế
giới theo hướng có lợi cho các đế quốc thắng trận, chủ yếu là Mỹ, Anh, Pháp.
Thay mặt Hội những người yêu nước
Việt Nam tại Pháp, Nguyễn Tất Thành cùng Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường thảo
ra bản Yêu sách của nhân dân An Nam gửi tới Hội nghị Vécxây. Dưới bản Yêu
sách Nguyễn Tất Thành ký tên: Nguyễn Ái Quốc. Đây là lần đầu tiên tên gọi
Nguyễn Ái Quốc xuất hiện. Nguyễn Ái Quốc tới lâu đài Vécxây gửi bản Yêu sách
cho văn phòng Hội nghị, sau đó lần lượt gửi bản Yêu sách đến các đoàn
đại biểu các nước Đồng minh dự hội nghị. Hầu hết các đoàn đại biểu đều có thư
trả lời Nguyễn Ái Quốc.
Bản Yêu sách gồm tám điểm:
1. Tổng ân xá cho tất cả những người
bản xứ bị án tù chính trị;
2. Cải cách nền pháp lý ở Đông Dương
bằng cách cho người bản xứ cũng được quyền hưởng những đảm bảo về mặt pháp
luật như người Âu châu; xoá bỏ hoàn toàn các toà án đặc biệt dùng
làm công cụ để khủng bố và áp bức bộ phận trung thực nhất trong nhân dân An
Nam;
3. Tự do báo chí và tự do ngôn
luận;
4. Tự do lập hội và hội
họp;
5. Tự do cư trú ở nước ngoài và
tự do xuất dương;
6. Tự do học tập, thành lập
các trường kỹ thuật và chuyên nghiệp ở tất cả các tỉnh cho người bản xứ;
7. Thay chế độ ra các sắc lệnh
bằng chế độ ra các đạo luật;
8. Đoàn đại biểu thường trực của
người bản xứ, do người bản xứ bầu ra, tại Nghị viện Pháp để giúp cho Nghị viện
biết được những nguyện vọng của người bản xứ (6).
Nguyễn Ái Quốc còn tự tay viết Yêu
sách bằng hai thứ tiếng: một bản bằng chữ quốc ngữ theo thể văn vần, nhan
đề Việt Nam yêu cầu ca và một bản chữ Hán nhan đề An Nam nhân dân
thỉnh nguyện thư. Anh đến Nhà in Sácpăngchiê, số 70 phố Gôbơlanh, bỏ tiền
túi của mình thuê in 6.000 bản Yêu sách của nhân dân An Nam để phân phát
trong các cuộc hội họp, míttinh, phát đi nhiều nơi và bí mật gửi về Việt Nam.
Thực dân Pháp bắt đầu chú ý tới
người có tên Nguyễn Ái Quốc. Trong một lần đến theo dõi buổi nói chuyện ở Hội
trường Hooctiquyntơ tại Pari, viên mật thám Pháp Pôn Ácnu (Paul Arnoux) chuyên
theo dõi người Việt Nam sống ở Pari, tận mắt chứng kiến Nguyễn Ái Quốc đang
phân phát truyền đơn in bảnYêu sách cho những người có mặt, đã phải thốt
lên dự cảm: “Con người thanh niên mảnh khảnh và đầy sức sống này có thể là
người sẽ đặt chữ thập cáo chung lên nền thống trị của chúng ta ở Đông
Dương”(7).
Bản Yêu sách phản ánh nguyện
vọng của nhân dân Việt Nam không được hội nghị xem xét. Đối với dư luận Pháp, Yêu
sách cũng không có tiếng vang như mong muốn, nhưng lại tác động mạnh mẽ đến
người Việt Nam trong nước và nước ngoài. Một người Việt Nam với tên gọi Nguyễn
Ái Quốc đã dũng cảm đưa vấn đề chính trị của Việt Nam ra quốc tế, đòi cho Việt
Nam có những quyền cơ bản chính đáng, thiết thực. Đây là dấu hiệu mới của cuộc
đấu tranh của nhân dân Việt Nam trên đường đi tới độc lập dân tộc. Qua việc bản
Yêu sách không được chấp nhận, Nguyễn Ái Quốc nhận thấy, như sau này
Người đã viết:
“Chủ nghĩa Uynxơn chỉ là một trò bịp
bợm lớn”(8) và “Muốn được giải phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào
mình, trông cậy vào lực lượng của bản thân mình”(9).
Từ yêu cầu thực tiễn đấu tranh,
Nguyễn Ái Quốc thấy cần phải học viết báo để tố cáo tội ác của thực dân Pháp.
Phong trào công nhân và chủ nghĩa xã hội ở Pháp đã đưa anh đến với hoạt động
báo chí. Trong hai năm 1919-1920, Nguyễn Ái Quốc đã viết 5 bài báo. Bài đầu
tiên làVấn đề bản xứ (10), đăng trên báo Nhân đạo (L’
Humanité),ngày 2-8-1919.
Bài báo nhắc lại những nội dung
chính bản Yêu sách của nhân dân An Nam gửi Hội nghị Vécxây, tháng
6-1919, khẳng định nguyện vọng đó của nhân dân Việt Nam là chính đáng; đồng
thời tố cáo, lên án những chính sách cai trị cùng các thủ đoạn đàn áp, cướp bóc
của thực dân Pháp ở Đông Dương và tin tưởng rằng nhân dân tiến bộ Pháp sẽ đồng
tình, ủng hộ cuộc đấu tranh vì tự do và công lý của nhân dân Việt Nam.
Báo Dân chúng (Le
Populaire) đăng bài Đông Dương và Triều Tiên (11) của Nguyễn Ái
Quốc. Bài báo nhắc đến sắc lệnh của Thiên Hoàng công bố tại Tôkyô ngày
19-8-1919 với nội dung định rõ quyền bình đẳng giữa người bản xứ Triều Tiên với
người Nhật trong tất cả các luật lệ. Bài báo so sánh chính sách cai trị của đế
quốc Nhật ở Triều Tiên và đế quốc Pháp ở Đông Dương, nghiêm khắc lên án chính
sách ngu dân của Pháp và đặt câu hỏi: Nước Pháp có thể đối với Đông Dương ít
nhất một cách sáng suốt như Nhật đối với Triều Tiên không?
Qua các bài báo trên, chúng ta thấy
rõ về mặt tư tưởng, Nguyễn Ái Quốc là một người yêu nước tiến bộ, căm thù chủ
nghĩa thực dân Pháp. Khát vọng của Người là đấu tranh giải phóng dân tộc, nhưng
làm thế nào và đi theo hướng nào để đạt được mục đích đó, Nguyễn Ái Quốc vẫn
còn đang tìm kiếm.
Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng
Mười Nga, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế phát triển mạnh mẽ. Đầu năm
1919, Lênin và những người theo chủ nghĩa Mác ủng hộ lập trường của Lênin họp
đại hội ở Mátxcơva, thành lập Quốc tế III – tức Quốc tế Cộng sản. Quốc tế Cộng
sản đã kiên quyết ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc ở các nước phương Đông.Sơ
thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của
Lênin được Đại hội lần thứ hai Quốc tế Cộng sản họp năm 1920 thông qua, đã vạch
ra đường lối cơ bản cho phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và phụ thuộc.
Lần đầu tiên trên báo Nhân đạo, ngày 16 và 17-7-1920 đã đăng Sơ thảo
lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của
Lênin. Tên đầu bài có liên quan đến vấn đề thuộc địa lập tức thu hút sự chú ý
của Nguyễn Ái Quốc. Trong văn kiện này, Lênin phê phán mọi luận điểm sai lầm
của những người đứng đầu Quốc tế II về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa, lên
án mạnh mẽ tư tưởng sô vanh, tư tưởng dân tộc hẹp hòi, ích kỷ, đồng thời nhấn
mạnh nhiệm vụ của các đảng cộng sản là phải giúp đỡ thật sự phong trào cách
mạng của các nước thuộc địa và phụ thuộc, về sự đoàn kết giữa giai cấp vô sản
các nước tư bản với quần chúng cần lao của tất cả các dân tộc để chống kẻ thù
chung là đế quốc và phong kiến.
Luận cương của Lênin đã chỉ cho Nguyễn Ái Quốc con đường giành độc lập
cho dân tộc và tự do cho đồng bào. Sau này, khi kể lại sự kiện quan trọng đó,
Người nói:
“Luận cương của Lênin làm cho tôi
rất cảm động, phấn khởi, sáng tỏ, tin tưởng biết bao! Tôi vui mừng đến phát
khóc lên. Ngồi một mình trong buồng mà tôi nói to lên như đang nói trước quần
chúng đông đảo: “Hỡi đồng bào bị đọa đày đau khổ! Đây là cái cần thiết cho
chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta”!
Từ đó, tôi hoàn toàn tin theo Lênin,
tin theo Quốc tế thứ ba” (12).
Từ bản Luận cương của Lênin,
Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy phương hướng và đường lối cơ bản của phong trào cách
mạng giải phóng dân tộc, trong đó có cách mạng Việt Nam. Niềm tin ấy là cơ sở
tư tưởng để Nguyễn Ái Quốc vững bước đi theo con đường cách mạng triệt để của
chủ nghĩa Mác-Lênin. Quyết tâm đi theo con đường của Lênin vĩ đại, Nguyễn Ái
Quốc xin gia nhập Uỷ ban Quốc tế III, do một số đồng chí trong Đảng Xã hội Pháp
lập ra, nhằm tuyên truyền vận động gia nhập Quốc tế III.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XVIII Đảng Xã hội Pháp họp từ ngày 25 đến ngày 30-12-1920, tại thành phố Tua
(Pháp), đã tranh luận gay gắt về việc gia nhập Quốc tế III hay ở lại Quốc tế
II, thành lập Đảng Cộng sản, hay giữ nguyên Đảng Xã hội. Nguyễn Ái Quốc tham dự
đại hội với tư cách là đại biểu chính thức và duy nhất của các nước thuộc địa
Đông Dương.
Tại phiên họp buổi chiều ngày
26-12-1920, Nguyễn Ái Quốc được mời phát biểu. Trong bài phát biểu, Người lên
án chủ nghĩa đế quốc Pháp, vì lợi ích của nó, đã dùng lưỡi lê chinh phục Đông
Dương và trong suốt nửa thế kỷ, nhân dân Đông Dương không những bị áp bức và
bóc lột một cách nhục nhã mà còn bị hành hạ và đầu độc một cách thê thảm. Bằng
những sự thật, Nguyễn Ái Quốc tố cáo những sự tàn bạo mà bọn thực dân Pháp đã
gây ra ở Đông Dương, và cho rằng:
“Đảng Xã hội cần phải hoạt động một
cách thiết thực để ủng hộ những người bản xứ bị áp bức”, rằng “Đảng phải tuyên
truyền chủ nghĩa xã hội trong tất cả các nước thuộc địa… đánh giá đúng tầm quan
trọng của vấn đề thuộc địa…”. Nguyễn Ái Quốc kết thúc bài phát biểu bằng lời
kêu gọi thống thiết:
“Nhân danh toàn thể loài người, nhân
danh tất cả các đảng viên xã hội, cả phái hữu lẫn phái tả, chúng tôi kêu gọi:
Các đồng chí, hãy cứu chúng tôi!” (13).
Tại đại hội lịch sử này, cùng với
những người cách mạng chân chính của nước Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã bỏ phiếu tán
thành tham gia Quốc tế III Quốc tế Cộng sản, trở thành một trong những người
sáng lập Đảng Cộng sản Pháp, và Người cũng trở thành người cộng sản Việt Nam
đầu tiên. Đó là một sự kiện chính trị vô cùng quan trọng trong đời hoạt động
cách mạng của Nguyễn Ái Quốc và trong lịch sử cách mạng nước ta. Nếu như cuộc
đấu tranh của Nguyễn Ái Quốc tại Hội nghị Vécxây năm 1919 mới là phát pháo hiệu
thức tỉnh nhân dân ta trong sự nghiệp đấu tranh chống thực dân Pháp, thì việc
Người tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp năm 1920 đã đánh dấu một bước chuyển
biến quyết định, bước nhảy vọt, thay đổi về chất trong nhận thức tư tưởng và
lập trường chính trị của Người: Từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Lênin.
40 năm sau nhìn lại sự kiện này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết:
“Cá nhân tôi, từ lúc đầu nhờ được
học tập truyền thống cách mạng oanh liệt và được rèn luyện trong thực tế đấu
tranh anh dũng của công nhân và của Đảng Cộng sản Pháp, mà tôi đã tìm thấy chân
lý của chủ nghĩa Mác – Lênin, đã từ một người yêu nước tiến bộ thành một chiến
sĩ xã hội chủ nghĩa” (14).
Như vậy, từ năm 1911 đến năm 1920,
là thời kỳ Nguyễn Ái Quốc khảo sát, nghiên cứu để lựa chọn con đường giải phóng
dân tộc Việt Nam khỏi ách nô lệ của bọn thực dân, phong kiến. Người đã vượt qua
ba đại dương, bốn châu lục Á, Âu, Phi, Mỹ. Trải qua những tháng năm lao động
kiếm sống, thâm nhập đời sống thực tế của những người lao động nhiều nước trên
thế giới, Nguyễn Ái Quốc thấy rõ cảnh bất công, tàn bạo của xã hội tư bản, anh
vô cùng xúc động trước đời sống khổ cực của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động các nước. Đến một số nước thuộc địa châu Phi, Người thấy rõ ở đâu người
dân mất nước cũng khổ cực như nhau. Bước đầu anh rút ra kết luận quan trọng là:
ở đâu chủ nghĩa tư bản cũng tàn ác và vô nhân đạo, ở đâu nhân dân lao động cũng
bị áp bức, bóc lột rất dã man; các dân tộc thuộc địa đều có một kẻ thù chung là
bọn đế quốc thực dân. Anh nhận rõ giai cấp công nhân và nhân dân lao động các
nước đều là bạn, chủ nghĩa đế quốc ở đâu cũng là kẻ thù. Sau này anh đã khái
quát thành một chân lý:
“Dù màu da có khác nhau, trên đời
này chỉ có hai giống người: giống người bóc lột và giống người bị bóc lột. Mà
cũng chỉ có một tình hữu ái là thật mà thôi: tình hữu ái vô sản” (15).
Cũng từ thực tế lao động, học tập,
thâm nhập đời sống những người lao động, phân tích tình hình chính trị thế
giới, tiếp cận với chủ nghĩa Mác – Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã lựa chọn con đường
cứu nước đúng đắn, đó là con đường cách mạng vô sản mà sau này Người đã đúc
kết:
“Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc
không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản” (16).
Sự lựa chọn và hành động của Nguyễn
Ái Quốc phù hợp với trào lưu tiến hóa của lịch sử, chuyển từ chủ nghĩa yêu nước
sang chủ nghĩa cộng sản, đã kéo theo cả một lớp người Việt Nam yêu nước chân
chính đi theo chủ nghĩa Mác-Lênin. Từ đó chủ nghĩa Mác – Lênin bắt đầu thâm
nhập vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, cách mạng Việt
Nam từ đây có một phương hướng mới.
Chú thích:
1. Báo Ogoniok, số 39, ngày
23-12-1923.
2. Báo Nhân dân, ngày
18-5-1965.
3. Trần Dân Tiên: Những mẩu
chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1975, tr.23.
4. Trần Dân Tiên: Những mẩu
chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Sđd, tr.29.
5. Trần Dân Tiên: Những mẩu
chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Sđd, tr.29.
6. Hồ Chí Minh: Toàn tập, xuất
bản lần thứ hai, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, t.1, tr.435-436.
7. Hồng Hà: Thời thanh niên của
Bác Hồ, Nxb. Thanh niên, Hà Nội, 1976, tr.81.
8. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,
t.1, tr. 416.
9. Trần Dân Tiên: Những mẩu
chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Sđd, tr. 33.
10. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,
t.1, tr. 6-10.
11. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,
t.1, tr. 11-14.
12. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,
t.10, tr. 127.
13. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,
t.1, tr. 23-24.
14. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,
t.10, tr.241.
15. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,
t.1, tr. 266.
16.Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,
t.9, tr. 314.
(Theo sách “Hồ Chí Minh tiểu sử”;
tác giả: Bảo tàng Hồ Chí Minh, NXB Chính trị Quốc gia – Hà Nội, 2008. Bản đánh máy theo
Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam dangcongsan.vn).
Be the first to like this.
Chương
3: Chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (1920 – 1930)
Trở thành người cộng sản, Nguyễn Ái
Quốc nhận thức được trách nhiệm to lớn của mình là phải mang toàn bộ khả năng
và sức lực góp phần cùng Đảng Cộng sản Pháp quan tâm hơn nữa đến các dân tộc
thuộc địa, bằng một kế hoạch hoạt động chính xác, một chính sách có hiệu quả và
thiết thực. Từ đây, bắt đầu một thời kỳ hoạt động sôi nổi của Người trên các
lĩnh vực, đặc biệt là các diễn đàn, các đại hội quốc tế và trên báo chí, nhằm
lên án tội ác của chủ nghĩa thực dân đối với nhân dân các nước thuộc địa, thức
tỉnh nhân dân các nước thuộc địa, hướng họ vào cuộc đấu tranh giành độc lập, tự
do.
Đánh giá cao sức mạnh của nhân dân
thuộc địa và vai trò của những người cộng sản trong việc tập hợp và tổ chức
quần chúng đấu tranh để giành độc lập dân tộc, trong hai bài Đông Dương,
đăng trên tạp chí La Revue Communiste, số 14 (4-1921) và số 15 (5-1921)
Nguyễn Ái Quốc khẳng định:
“Đằng sau sự phục tùng tiêu cực,
người Đông Dương giấu một cái gì đang sôi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ một
cách ghê gớm, khi thời cơ đến. Bộ phận ưu tú có nhiệm vụ phải thúc đẩy cho thời
cơ đó mau đến.
Sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã
chuẩn bị đất rồi: Chủ nghĩa xã hội chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt giống
của công cuộc giải phóng nữa thôi”(1).
Đồng thời, Người nhấn mạnh vai trò
của cách mạng thuộc địa trong sự nghiệp cách mạng của giai cấp vô sản thế giới.
Theo Người:
“Ngày mà hàng trăm triệu nhân dân
châu Á bị tàn sát và áp bức thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của một bọn
thực dân lòng tham không đáy, họ sẽ hình thành một lực lượng khổng lồ, và trong
khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ
nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh em mình ở phương Tây trong
nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”(2).
Sau ngày 14-7-1921, Nguyễn Ái Quốc
rời số 6, Vila đờ Gôbơlanh đến ở trong căn phòng rộng 9 m2, gác 2,
nhà số 9, ngõ Côngpoanh, quận 17, Pari. Mặc dù chật hẹp, nhưng nơi đây đã trở
thành một trung tâm mới, thu hút những người Việt Nam yêu nước.
Sống chủ yếu bằng nghề in phóng ảnh,
nhưng do việc làm không ổn định, giá sinh hoạt lại đắt đỏ, nên cuộc sống của
Nguyễn Ái Quốc gặp nhiều khó khăn. Đặc biệt, từ khi thay mặt Hội những người
Việt Nam yêu nước tại Pháp ký tên vào bản Yêu sách 8 điểm, do có sự can
thiệp của cơ quan an ninh Pháp đối với những chủ hiệu đã thuê Nguyễn Ái Quốc,
nên sự tìm kiếm việc làm của Người càng khó khăn hơn. Để chống lại những đêm
mùa đông giá rét, Nguyễn Ái Quốc dùng hơi ấm từ viên gạch (để nhờ cạnh bếp lò
của người chủ nhà khi đi làm), đến tối về, bọc báo, để xuống giường cho đỡ
lạnh. Nguyễn Ái Quốc thường chỉ đi làm buổi sáng, buổi chiều Người đến thư
viện, hoặc đi dự các buổi míttinh, các buổi nói chuyện chính trị để nâng cao
hiểu biết. Tại các buổi míttinh, các buổi sinh hoạt chính trị, Nguyễn Ái Quốc
cũng tham gia phát biểu ý kiến, tranh luận và Người thường khéo léo lái sang
vấn đề thuộc địa, nhằm lên án chủ nghĩa thực dân.
Ngày 12-12-1921, Nguyễn Ái Quốc dự
Đại hội Đảng bộ quận Xen (Seine), nơi Người cư trú và được bầu là đại biểu
chính thức dự Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ I Đảng Cộng sản Pháp, họp từ
ngày 25 đến 30-12-1921 tại Mácxây. Đại hội bầu Nguyễn Ái Quốc làm phụ tá của
Chủ tịch Đại hội. Nguyễn Ái Quốc phát biểu cám ơn các đại biểu đã quan tâm đến
những người bản xứ, qua đó Người khẳng định:
“Chỉ có trong chủ nghĩa cộng sản
người ta mới thấy tình hữu ái thực sự và quyền bình đẳng, và cũng chỉ có nó
chúng ta mới có thể thực hiện sự hoà hợp và hạnh phúc ở chính quốc và ở các
thuộc địa” (3).
Với những hoạt động tích cực tại đại
hội, chiều ngày 29-12-1921, Nguyễn Ái Quốc được mời trình bày dự thảo Nghị
quyết về chủ nghĩa cộng sản và các thuộc địa – văn kiện mà Người tham gia
chuẩn bị. Người nhấn mạnh:
“Nhưng điều mà người ta có thể trông
đợi ở Đại hội Mácxây, trước hết là đại hội tán thành nguyên tắc thành lập một
cơ quan đặc biệt phụ trách chính sách về thuộc địa của Đảng, tiếp đó là uỷ
quyền cho Ban lãnh đạo thấy rõ: 1. Tiếp tục và mở rộng nhiệm vụ chuẩn bị đã
được khởi đầu. 2. Trình bày ở đại hội sau của Đảng một luận cương về thuộc địa
đã được nghiên cứu nghiêm túc để đại hội thảo luận đến nơi đến chốn sao cho từ
đó Đảng có một chính sách thuộc địa rõ ràng, có phương pháp và thiết thực”(4).
Sau đại hội, Nguyễn Ái Quốc đề nghị
Ban lãnh đạo Đảng thành lập Ban Nghiên cứu thuộc địa, có nhiệm vụ giúp Đảng cập
nhật thông tin về tình hình các thuộc địa, đề xuất các chính sách đấu tranh với
giai cấp tư sản và bọn thực dân, thiết thực giúp đỡ và phối hợp đấu tranh với
các dân tộc thuộc địa, v.v.. Ý kiến này được chấp thuận và Nguyễn Ái Quốc được
chỉ định tham gia ban đó.
Tiếp đó, Nguyễn Ái Quốc lại được cử
đi dự Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II Đảng Cộng sản Pháp, họp ở Pari, từ
ngày 21 đến ngày 24-10-1922. Tại đại hội này, vấn đề thuộc địa vẫn không có
trong chương trình nghị sự. Trên diễn đàn của đại hội, Nguyễn Ái Quốc lên tiếng
phê bình Đảng Cộng sản Pháp chưa quan tâm đúng mức đến vấn đề thuộc địa. Theo
đề nghị tích cực của Nguyễn Ái Quốc, Đại hội biểu quyết thông qua: Lời kêu
gọi những người bản xứ ở các thuộc địa do Ban Nghiên cứu thuộc địa đệ
trình, trong đó nhấn mạnh:
“Vì hoà bình thế giới, vì tự do và
sự no ấm của mọi người, những người bị bóc lột thuộc mọi nòi giống, chúng ta
hãy đoàn kết lại và đấu tranh chống bọn áp bức” (5).
Sau đó, Lời kêu gọi đã được viết rút
gọn bằng tiếng Việt, in thành truyền đơn và bí mật gửi về Việt Nam.
Những hoạt động tích cực, có hiệu
quả của Nguyễn Ái Quốc tại Đại hội lần I và Đại hội II của Đảng Cộng sản Pháp
đã góp phần đánh dấu một bước tiến mới trong nhận thức và trong hoạt động của
Đảng Cộng sản Pháp về vấn đề thuộc địa, đồng thời thúc đẩy Đảng Cộng sản Pháp
đi đúng tư tưởng chỉ đạo của Lênin về vấn đề thuộc địa.
Thời kỳ này, Nguyễn Ái Quốc tham gia
sinh hoạt câu lạc bộ Phôbua, do Lêo Pônđét (Léo Poldes), một trí thức tiến bộ
Pháp sáng lập và lãnh đạo, với nhiều nội dung phong phú và bổ ích. Nguyễn Ái
Quốc tham dự khá đều đặn các chương trình, sinh hoạt của câu lạc bộ và tham gia
Hội nghệ thuật và khoa học, Hội những người bạn của nghệ thuật, Hội du lịch, để
có điều kiện đi tham quan các bảo tàng, nhà máy, phòng thí nghiệm, xưởng nghệ
thuật và nhiều nơi ở Italia, Thụy Sĩ, Đức, để có điều kiện khảo sát thực tế và
tăng thêm sự hiểu biết. Câu lạc bộ Phôbua, nơi Người thường xuyên tham gia sinh
hoạt đã tổ chức trình diễn vở kịch Con rồng tre do Người sáng tác, nhằm
đả kích ông vua bù nhìn Khải Định, khi ông ta sang Pháp dự Hội chợ thuộc địa
tại Mácxây (6-1922).
Tham gia đều đặn các buổi sinh hoạt
và các hoạt động ngoại khoá của câu lạc bộ Phôbua, nhận thức chính trị và xã
hội của Nguyễn Ái Quốc ngày một nâng cao. Từ những hoạt động phong phú đó,
Người có điều kiện hiểu sâu sắc hơn về đời sống chính trị, xã hội, về tổ chức
bộ máy của Nhà nước Pháp, về cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản Pháp và những
bất công trong lòng xã hội Pháp. Đồng thời Người nhận thức rõ hơn về con đường,
mục tiêu và những phương thức để đấu tranh giải phóng của nhân dân ở các thuộc
địa. Từ Thủ đô nước Pháp, Người đã từng bước vạch trần những tội ác của chủ
nghĩa thực dân Pháp trên nhiều báo và tạp chí.
Sau khi tiếp thu Sơ thảo lần thứ
nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin,
Nguyễn Ái Quốc đã hướng các hoạt động cụ thể của mình vào mục tiêu lên án chủ
nghĩa thực dân. Với nhiều bài viết, bằng thể loại khác nhau đăng trên các báo Nhân
đạo (L’Humanité), Đời sống công nhân (La Vie Ouvrière),tạp chí
Cộng sản (La Revue Communiste), v.v., Nguyễn Ái Quốc tập trung tố
cáo:
- Nền khai hoá giết người, tố cáo sự
phung phí tiền của, sự bóc lột nhân dân thuộc địa của bọn thực dân, đặc biệt là
bộ mặt gian ác của những viên quan thực dân tiêu biểu như A. Xarô (Bộ trưởng Bộ
Thuộc địa), Bôđoanh (con rể A. Xarô), M. Lông, Utơrây… những viên quan cai trị
khét tiếng tàn ác.
- Kêu gọi các đảng cộng sản ở chính
quốc phải giúp đỡ các phong trào đấu tranh giải phóng ở các thuộc địa, bởi theo
Người thì: “trong các thuộc địa, công nhân đã bắt đầu hiểu thế nào là đấu tranh
giai cấp” (6), song thực tế “tình trạng thờ ơ của giai cấp vô sản chính quốc
đối với các thuộc địa” vẫn tồn tại. Vì vậy, công nhân ở các nước chính quốc cần
phải giúp đỡ một cách tích cực nhất phong trào giải phóng của các nước phụ
thuộc, theo đúng những lời dạy của Lênin.
- Phân tích những điều kiện và chỉ
rõ chủ nghĩa cộng sản có thể thực hiện được ở châu Á, đặc biệt là cách mạng
thuộc địa có thể giành thắng lợi trước, không hoàn toàn phụ thuộc vào thắng lợi
của cách mạng vô sản ở chính quốc. Từ đó, nhân dân thuộc địa có thể đóng góp
sức mình, giúp đỡ những người anh em phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn
toàn.
Cũng trong những năm tháng hoạt động
ở Thủ đô Pari – trung tâm kinh tế, chính trị, văn hoá của nước Pháp, Nguyễn Ái
Quốc có điều kiện hấp thụ đời sống văn hoá Pháp để làm giàu cho vốn văn hoá của
mình. Người tìm thấy trong văn hoá Pháp, trong nền triết học ánh sáng Pháp, tâm
hồn Pháp tinh thần Tự do, Bình đẳng, Bác ái của truyền thống văn hoá Pháp và
những tinh hoa văn hoá nhân đạo và dân chủ của phương Tây. Với trí tuệ mẫn cảm
và vốn văn hoá sâu rộng của mình, Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác –
Lênin, đỉnh cao và kết tinh của thành tựu văn hoá nhân loại, để trở thành một
nhà hoạt động và sáng tạo văn hoá kiệt xuất của dân tộc Việt Nam.
Để có thể thúc đẩy sự nghiệp cách
mạng của nhân dân các thuộc địa, để có một bộ tham mưu tổ chức và lãnh đạo
thống nhất cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc ở các thuộc địa, được sự đồng
tình và ủng hộ của Đảng Cộng sản Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã cùng với đại biểu
thuộc địa của Pháp đứng ra vận động thành lập Hội Liên hiệp thuộc địa – một
hình thức mặt trận của các dân tộc bị chủ nghĩa thực dân Pháp thống trị, liên
minh với giai cấp vô sản ở chính quốc cùng đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân. Hội
Liên hiệp thuộc địa là một hiện tượng có một không hai trong lịch sử, đó là
một liên minh chống chủ nghĩa thực dân ra đời và hoạt động ngay tại chính trung
tâm chính trị của nước Pháp thực dân.
Sau nhiều lần gặp gỡ trao đổi, cuộc
họp ngày 26-6-1921 của các chiến sĩ chống chủ nghĩa thực dân Pháp ở nhiều nước
đang sinh sống ở Pari đã bàn việc thành lập hội, xây dựng chương trình, điều lệ
và cử Ban Chấp hành. Ngày 20-7-1921, Ban Chấp hành hội đã thông qua các văn bản
và nộp Điều lệ hội cho nhà chức trách. Cuộc họp ngày 28-5-1922 thông qua
Tuyên ngôn của hội do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo và nhấn mạnh:
“Chúng tôi xin nói với anh em rằng,
công cuộc giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện được bằng sự nỗ lực của bản
thân anh em. Hội Liên hiệp thuộc địa thành lập chính là để giúp đỡ anh em trong
công cuộc ấy… Vô sản tất cả các nước, đoàn kết lại” (7).
Từ những hoạt động và đóng góp của
mình, Người đã được bầu vào Ban Chấp hành Hội Liên hiệp thuộc địa. Thời gian
đầu (1922-1923), Hội Liên hiệp thuộc địa có khoảng 200 hội viên, hoạt động mạnh
mẽ, sôi nổi và có ảnh hưởng rộng rãi. Hội những người Việt Nam yêu nước là một
đoàn thể trong Hội Liên hiệp thuộc địa. Tuy nhiên, thời gian sau, do nhiều
nguyên nhân tác động như sự cản trở và phá hoại của Bộ Thuộc địa, sự eo hẹp về
tài chính… hoạt động của Hội giảm dần. Đến tháng 6-1926, Hội Liên hiệp thuộc
địa ngừng hoạt động.
Hội Liên hiệp thuộc địa xuất bản báo
Người cùng khổ(Le Paria) làm cơ quan ngôn luận. Nguyễn Ái Quốc được phân
công làm chủ nhiệm, kiêm chủ bút của tờ báo.Le Paria số 1, ngày
11-4-1922, đăng lời kêu gọi, nêu rõ tôn chỉ, mục đích và nhấn mạnh:
“Le Paria đã sẵn sàng bước vào cuộc
chiến đấu, mục đích của báo chắc chắn sẽ đạt được: đó là giải phóng loài người”
(8).
Từ khi ra đời đến khi đình bản, báo
Người cùng khổ ra được 38 số, trong những điều kiện hết sức khó khăn về tài
chính và phương tiện hoạt động, lại luôn bị cảnh sát theo dõi, đe dọa, gây khó
dễ. Nguyễn Ái Quốc là một trong những người lãnh đạo chủ chốt của báo, Người
làm chủ nhiệm, chủ bút, giữ quỹ và kiêm cả việc phát hành, bán báo. Làm việc
không mệt mỏi, Nguyễn Ái Quốc đóng góp cho sự tồn tại và phát triển của báo
bằng cách viết nhiều bài cho báo, thậm chí còn dành cả phần tài chính eo hẹp
của mình cho báo.
Nguyễn Ái Quốc phụ trách tờ báo từ
số 1 đến số 15 (6-1923). Trước khi rời Pháp đi Liên Xô, Người viết bài để lại
cho các số sau. Trong thời gian này, Người viết 30 bài. Những bức tranh, ký họa
của Người đăng trên báo ký tên Nguyễn Ái Quốc và một số bút danh khác. Nội dung
các bài viết này tập trung vạch trần tội ác của chủ nghĩa thực dân trên tất cả
các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội đối với nhân dân Việt Nam,
nhân dân Đông Dương và các thuộc địa khác. Từ đó, giúp người đọc nhận thức rõ
hơn về sự tàn bạo của chủ nghĩa thực dân nói chung và thực dân Pháp nói riêng;
về mâu thuẫn không thể điều hoà giữa chủ nghĩa thực dân với nhân dân lao động
tại các thuộc địa; về mối quan hệ giữa cách mạng thuộc địa và chính quốc. Cũng
từ những bài báo đó, Nguyễn Ái Quốc đã góp phần truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin
vào phong trào công nhân ở các thuộc địa, thức tỉnh phong trào đấu tranh giải
phóng dân tộc. Đồng thời, thông qua nội dung các bài báo, Người bước đầu
chỉ ra yêu cầu cần thiết của việc thực hiện đoàn kết giai cấp và đoàn kết quốc
tế, giữa nhân dân các thuộc địa, giữa thuộc địa với chính quốc và coi đó là
những điều kiện bảo đảm cho cuộc đấu tranh đi đến thắng lợi hoàn toàn.
Thời kỳ này, Nguyễn Ái Quốc đã vận
động Hội những người Việt Nam yêu nước tại Pháp ra báo Việt Nam hồn. Nhưng do
Người rời Pháp đi Liên Xô nên dự định ra báo này chưa kịp thực hiện. Sau đó,
báo Việt Nam hồn ra đời vào tháng 1-1926, dưới sự chỉ đạo của cụ Nguyễn Thế
Truyền.
Hoạt động của Nguyễn Ái Quốc tại
Pháp thông qua những đóng góp của Người tại Đại hội I và II của Đảng Cộng sản
Pháp, tại Hội Liên hiệp thuộc địa cùng với việc xuất bản báo Người cùng khổ
được Đảng Cộng sản Pháp đánh giá cao. Uy tín và vai trò của người cộng sản Đông
Dương đã được Quốc tế Cộng sản biết đến và Người được Đảng Cộng sản pháp cử đi
Mátxcơva (Liên Xô) dự Đại hội V Quốc tế Cộng sản.
Ngày 13-6-1923, từ ga Đuy No (Du
Nord), Nguyễn Ái Quốc rời Pari bằng tàu hoả đến Béclin (Đức). Từ Hămbuốc (Đức),
Người đi tàu thuỷ đến Pêtơrôgrát (Liên Xô), quê hương của Cách mạng Tháng Mười
(30-6-1923). Ít ngày sau, Người đi xe lửa về Mátxcơva, bắt đầu một thời kỳ hoạt
động, học tập và nghiên cứu về chủ nghĩa Mác – Lênin, về chế độ xã hội chủ
nghĩa ngay trên đất nước của Lênin vĩ đại.
Nguyễn Ái Quốc đến Liên Xô, khi Liên
Xô đang thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng Cộng sản Liên Xô.
Được ít ngày, tháng 7-1923, Nguyễn Ái Quốc gửi thư cho Trung ương Đảng Cộng sản
Pháp, nêu lại ý nghĩa và tác dụng của Nghị quyết Đại hội II Quốc tế Cộng sản về
vấn đề thuộc địa, đồng thời llưu ý Đảng Cộng sản Pháp vẫn chưa coi trọng
vấn đề thuộc địa trong các chương trình hành động của mình. Theo Người, những
người dân thuộc địa:
“Những người bị áp bức khốn khổ thấy
chúng ta chỉ luôn luôn hứa hẹn nhưng cũng luôn luôn không hành động gì thì bắt
đầu tự hỏi rằng không biết thực ra chúng ta là những người đứng đắn hay là
những kẻ lừa phỉnh” (9).
Cũng trong bức thư này, Người đề
xuất với Đảng 8 nhiệm vụ cụ thể cần được triển khai ngay, nhằm thực hiện tốt
Nghị quyết của Đại hội II Quốc tế Cộng sản về vấn đề thuộc địa.
Tháng 6-1923, theo sáng kiến và đề
nghị của đồng chí Đôm Ban (Thomas Dombal), Quốc tế Cộng sản đã ủng hộ việc
thành lập một tổ chức nông dân quốc tế, nhằm thực hiện liên minh công – nông
trên phạm vi toàn thế giới. Tháng 10-1923, Hội nghị lần thứ nhất Quốc tế Nông
dân được triệu tập, gồm 158 đại biểu, trong đó có 122 đại biểu chính thức, đại
diện cho nông dân của 40 nước trên thế giới. Nguyễn Ái Quốc được mời tham dự
hội nghị với tư cách là đại biểu chính thức của nông dân Đông Dương.
TTại phiên họp đầu tiên, hội nghị đã
bầu Nguyễn Ái Quốc vào Đoàn Chủ tịch, gồm 11 người. Nguyễn Ái Quốc là đại biểu
duy nhất của nông dân thuộc địa. Được mời phát biểu, Người nói:
“Quốc tế của các đồng chí chỉ trở
thành một quốc tế thật sự khi mà không những nông dân phương Tây, mà cả nông
dân ở phương Đông, nhất là nông dân ở các thuộc địa là những người bị bóc lột
và bị áp bức nhiều hơn các đồng chí, đều tham gia quốc tế của các đồng chí”
(10).
Hội nghị bầu ra Hội đồng Quốc tế
Nông dân gồm 52 uỷ viên, thông qua các văn kiện và kết thúc vào ngày
16-10-1923.
Thời gian ở Liên Xô, Nguyễn Ái Quốc
viết nhiều bài cho tạp chí Krestianski International (Quốc tế Nông
dân), đề cập đến các vấn đề của nông dân Việt Nam, Trung Quốc và Bắc Phi,
tố cáo chế độ áp bức, bóc lột dã man của bọn thực dân, đế quốc, chỉ rõ phương
hướng đấu tranh cho những người nông dân thuộc địa và nửa thuộc địa. Trong khi
nêu vấn đề xoá bỏ tình trạng khổ cực của những người nông dân, Nguyễn Ái Quốc
cũng đồng thời chỉ rõ nguồn sức mạnh và hướng những người nông dân vào cuộc đấu
tranh đó, với khẩu hiệu: “Tất cả ruộng đất về tay nông dân“ (11).
Sau khi rời Liên Xô, Người được giao nhiệm vụ phụ trách phong trào nông dân các
nước châu Á với tư cách uỷ viên Đoàn Chủ tịch Quốc tế Nông dân.
Nguyễn Ái Quốc đến Liên Xô tham dự
Đại hội Quốc tế Cộng sản, nhưng do Lênin ốm nặng, nên đại hội hoãn họp, vì vậy,
Người tham gia lớp học ngắn hạn của Trường đại học Phương Đông. Ngày 2-4-1924,
Nguyễn Ái Quốc được mời tham dự lễ kỷ niệm lần thứ ba ngày thành lập trường.
Trong thời gian học tập ở trường, Nguyễn Ái Quốc đã trao đổi với những thanh
niên Trung Quốc, tập hợp tư liệu do họ cung cấp và chủ biên cuốn sách:Trung
Quốc và thanh niên Trung Quốc, bằng tiếng Pháp (được Petrôva Sua dịch ra
tiếng Nga, Nxb. Nôvaia Mátxcơva xuất bản năm 1925).
TThời gian này, Nguyễn Ái Quốc gặp
và trả lời phỏng vấn nhà thơ Ôxíp Manđenxtam và Người đã để lại một ấn tượng
sâu sắc trong lòng nhà thơ:
“Từ Nguyễn Ái Quốc đã toả ra một thứ
văn hoá, không phải văn hoá Âu châu, mà có lẽ là một nền văn hoá tương lai… Dân
An Nam là một dân tộc giản dị và lịch thiệp. Qua phong thái thanh cao, trong
giọng nói trầm ấm của Nguyễn Ái Quốc, chúng ta như nghe thấy ngày mai, như thấy
sự yên tĩnh mênh mông của tình hữu ái toàn thế giới” (12).
Cảm nhận của nhà thơ, nhà báo đã góp
phần làm cho dư luận và bạn bè quốc tế chú ý hơn đến người chiến sĩ cộng sản
Nguyễn Ái Quốc của Đông Dương thuộc địa.o:p>
Ngày 21-1-1924, Lênin qua đời. Vô
cùng thương tiếc Lênin, ngày 23-1-1924, Nguyễn Ái Quốc đã có mặt trong dòng
người vào vĩnh biệt Lênin. Sau đó, Người viết bài: Lênin và các dân tộc
thuộc địa, đăng báo Sự thật (Pravđa), ngày 27-1-1924, và khẳng
định: “Lênin bất diệt sẽ sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta”. Đây là lời thề
của người chiến sĩ cộng sản Nguyễn Ái Quốc, Người sẽ phấn đấu hiện thực
hoá tư tưởng của Lênin vĩ đại ở các thuộc địa. Người sẽ gắn bó cuộc cách mạng
giải phóng dân tộc với con đường đi tới cuộc cách mạng xã hội xã hội chủ nghĩa
sau đó.
Nửa năm sau ngày Lênin mất, Nguyễn
Ái Quốc viết bàiLênin và các dân tộc phương Đông, đăng báo Le Paria
(số 27, tháng 7-1924), Người khẳng định:
“Không phải chỉ thiên tài của Người,
mà chính là tính coi khinh sự xa hoa, tinh thần yêu lao động, đời tư trong
sáng, nếp sống giản dị, tóm lại là đạo đức vĩ đại và cao đẹp của người thầy, đã
ảnh hưởng lớn lao tới các dân tộc châu Á và đã khiến cho trái tim của họ hướng
về Người, không gì ngăn cản nổi” (13).
Học xong lớp ngắn hạn tại Đại học
Phương Đông, trong khi chờ đợi Đại hội V Quốc tế Cộng sản khai mạc và chờ lên
đường về châu Á, Nguyễn Ái Quốc được nhận vào làm cán bộ của Ban Phương Đông
Quốc tế Cộng sản (theo giấy xác nhận do Pêtơrốp ký ngày 14-4-1924).
Nhân ngày Quốc tế lao động 1-5-1924,
Nguyễn Ái Quốc được mời đến Hồng trường nói chuyện với những người đi biểu tình
và được Tư lệnh thành phố Mátxcơva cấp giấy phép tự do đi lại trên Hồng trường
trong ngày Quốc tế của những người lao động. Những hoạt động tích cực của Người
trên đất nước Xôviết, sự có mặt của Người trong những nghi lễ quan trọng cho
thấy vai trò và uy tín của Nguyễn Ái Quốc ngày càng được khẳng định ở trung tâm
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Nguyễn Ái Quốc dự Đại hội V Quốc tế
Cộng sản họp từ ngày 17-6 đến 8-7-1924 tại Mátxcơva (với 504 đại biểu thay mặt
cho 46 đảng cộng sản, 4 đảng không cộng sản và 10 tổ chức quốc tế) để tổng kết
tình hình, rút ra những bài học kinh nghiệm của các cuộc đấu tranh giai cấp
trong những năm 1918-1923, đồng thời nêu lên ý nghĩa, tầm quan trọng của việc
bônsêvích hoá các đảng cộng sản. Tại đại hội, vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc
địa màNguyễn Ái Quốcđặc biệt lưu tâm là điểm thứ 5 của chương trình nghị sự.
Trong buổi khai mạc đại hội, Nguyễn
Ái Quốc phát biểu: Tôi muốn biết đại hội có gửi Lời kêu gọi đặc biệt đến các
dân tộc thuộc địa không? Và trước khi biểu quyết thông qua Lời kêu gọi,
Người đề nghị bổ sung mấy chữ: Gửi các dân tộc thuộc địa.
Sau đó, tại phiên họp thứ 8, ngày
23-6-1924, Nguyễn Ái Quốc được mời phát biểu ý kiến. Thẳng thắn phê bình một số
đảng cộng sản đã coi nhẹ vấn đề thuộc địa, Người nói:
“Tôi đến đây để không ngừng lưu ý
Quốc tế Cộng sản đến một sự thật là: Thuộc địa vẫn đang tồn tại, và vạch ra để
Quốc tế Cộng sản thấy rằng: Cách mạng, ngoài vấn đề tương lai của các thuộc địa
còn có cả nguy cơ của các thuộc địa”;vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới và
đặc biệt là vận mệnh của giai cấp vô sản ở các nước đi xâm lược thuộc địa gắn
chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức ở các thuộc địa… Thế mà các đồng chí
khi nói về cách mạng, các đồng chí lại khinh thường thuộc địa” (14).
Tiếp tục chương trình nghị sự, được
phát biểu về vấn đề dân tộc và thuộc địa, tại phiên họp thứ 22 của đại hội,
ngày 1-7-1924, Nguyễn Ái Quốc khẳng định tầm quan trọng và vị trí của cách mạng
thuộc địa:
“Cách mạng ở phương Tây muốn thắng
lợi thì nó phải liên hệ chặt chẽ với phong trào giải phóng chống chủ nghĩa đế
quốc ở các nước thuộc địa và các nước bị nô dịch” (15).
Tại phiên họp thứ 25, ngày 3-7-1924,
Nguyễn Ái Quốc phát biểu về vấn đề ruộng đất và nông dân ở các thuộc địa của
Pháp. Nói về sự thất bại của nông dân bản xứ, Nguyễn Ái Quốc nhấn mạnh:
“Họ còn thiếu tổ chức, thiếu người
lãnh đạo. Quốc tế Cộng sản cần phải giúp đỡ họ tổ chức lại, cần phải cung cấp
cán bộ lãnh đạo cho họ và chỉ cho họ con đường đi tới cách mạng và giải phóng”
(16).
Với danh nghĩa đại biểu Đông Dương,
Nguyễn Ái Quốc được mời tham dự Đại hội lần thứ III Quốc tế Công hội đỏ, họp từ
ngày 7 đến ngày 22-7-1924. Trong bài tham luận tại đại hội, Nguyễn Ái Quốc
trình bày những vấn đề liên quan đến giai cấp vô sản ở Đông Dương, khẳng định
giai cấp vô sản Đông Dương chưa có một tổ chức công nhân nào cả. Từ thực tế đó,
Người đề nghị:
“Các tổ chức công nhân cách mạng
Pháp phải tích cực giúp đỡ chúng tôi trong cuộc đấu tranh giải phóng của chúng
tôi” (17).
Sau đó, Người được mời và tham dự
Đại hội Quốc tế Cộng sản Thanh niên và Hội nghị của Tổ chức Quốc tế Cứu tế đỏ
(MOPR).
Những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc
tại các đại hội trên đã giúp cho giai cấp công nhân thế giới và nhân dân Xôviết
hiểu rõ hơn về tình cảnh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Việt Nam
nói riêng và nhân dân Đông Dương nói chung, đồng thời đặt nền móng cho sự liên
minh, tình đoàn kết vô sản quốc tế giữa nhân dân Việt Nam và những người lao
động thế giới.
Trong thời gian ở Liên Xô, Nguyễn Ái
Quốc đã tranh thủ viết bài cho các báo Nhân đạo (L’Humanité), Đời
sống công nhân (La Vie Ouvrière), Sự thật (Pravđa), Người
cùng khổ (Le Paria), Thư tín quốc tế (Inprékor), Tạp chí Cộng
sản vv.v.. Các bài báo tập trung nói về các vấn đề liên quan đến giai cấp
công nhân, đến cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân ở các thuộc địa, đồng thời
chỉ ra mối quan hệ khăng khít giữa cách mạng vô sản ở chính quốc và cách mạng
thuộc địa:
“Chủ nghĩa tư bản là một con đỉa có
một cái vòi bám vào giai cấp vô sản ở chính quốc và một cái vòi khác bám vào
giai cấp vô sản ở thuộc địa. Nếu muốn giết con vật ấy, người ta phải đồng thời
cắt cả hai vòi. Nếu người ta chỉ cắt một vòi thôi, thì cái vòi còn lại kia vẫn
tiếp tục hút máu của giai cấp vô sản, con vật vẫn tiếp tục sống và cái vòi bị
cắt đứt lại sẽ mọc ra” (18).
Vì thế, muốn thủ tiêu tận gốc chủ
nghĩa tư bản, phải xây dựng tình đoàn kết giữa giai cấp vô sản chính quốc với
giai cấp vô sản, đặc biệt là đội tiên phong của nó ở thuộc địa, đoàn kết giữa
các dân tộc thuộc địa thành một mặt trận thống nhất chống chủ nghĩa đế quốc.
Thông qua các bài viết, Nguyễn Ái
Quốc đã cụ thể hoá và vận dụng sáng tạo những luận điểm của Lênin về vấn đề dân
tộc và thuộc địa. Không dừng lại ở đó, trong khi chỉ ra vị trí và sức mạnh của
nhân dân thuộc địa trong cuộc đấu tranh giải phóng, trong khi nhấn mạnh rằng:
Muốn đánh vào sào huyệt của chủ nghĩa thực dân thì phải tước hết thuộc địa của
chúng, Nguyễn Ái Quốc cũng đồng thời chỉ ra tính chủ động cách mạng của
nhân dân thuộc địa. Cùng với những hoạt động lý luận và thực tiễn của mình,
Người đã đấu tranh kiên quyết để góp phần hiện thực hoá khẩu hiệu nổi tiếng của
Lênin: Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại!
Từ những bài báo viết trong những
năm 1921-1924 này, Người bổ sung, sửa chữa thành cuốn Bản án chế độ thực dân
Pháp. Cuối năm 1924, bản thảo được gửi từ Mátxcơva đến Pari cho Hội Liên
hiệp thuộc địa và Ban biên tập báo Le Paria (trước khi Nguyễn Ái
Quốc rời Liên Xô đi Quảng Châu). Cuốn sách gồm 12 chương và phần Phụ lục, đề
cập ba nội dung lớn: Tội ác của chủ nghĩa thực dân Pháp; Sự thức tỉnh các dân
tộc thuộc địa; Phương hướng đấu tranh, giải phóng các thuộc địa theo đường lối
của Quốc tế Cộng sản. Bài viết: Gửi thanh niên Việt Nam để ở phần Phụ
lục của cuốn sách, đó là những lời tâm huyết của Người với thế hệ thanh
niên trước vận mệnh của đất nước. Từ việc đánh giá đúng vị trí, vai trò của
thanh niên trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, Người kêu gọi:
“Hỡi Đông Dương đáng thương hại!
Người sẽ chết mất, nếu đám Thanh niên già cỗi của Người không sớm hồi sinh”
(19).
Bằng sự nhạy bén về chính trị, phân
tích tình hình thế giới, dự báo cục diện của phương Đông và phương Tây, thông
qua các bài viết, Nguyễn Ái Quốc kêu gọi giai cấp vô sản quốc tế hãy cảnh giác
với “lò lửa của chiến tranh thế giới mới”:
“Thái Bình Dương và các nước thuộc
địa xung quanh Thái Bình Dương, tương lai có thể trở thành một lò lửa của chiến
tranh thế giới mới mà giai cấp vô sản sẽ phải nai lưng ra gánh” (20).
Đồng thời, Nguyễn Ái Quốc tuyên
truyền về thành tích của nước Nga Xôviết, về sự giúp đỡ của nước Nga với các
dân tộc thuộc địa, góp phần chống lại sự xuyên tạc của báo chí tư sản đối với
cách mạng Nga, với đất nước Nga Xôviết, bởi theo Người:
“Nếu nước Nga chưa phải là một thiên
đường cho tất cả mọi người, thì nước Nga đã là một thiên đường của trẻ con”
(21).
Sống và hoạt động ở Mátxcơva, trung
tâm của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, điều mà Nguyễn Ái Quốc nhận
thấy rõ nhất, đó là Quốc tế Cộng sản và các đảng ở châu Âu hiểu biết rất ít về
tình hình ở các thuộc địa. Đặc biệt, Người nhận thức rõ rằng, không thể áp dụng
một cách máy móc, rập khuôn những nguyên lý về đấu tranh giai cấp của học
thuyết Mác vào điều kiện cụ thể của các thuộc địa. Vì vậy, Người xác định sẽ
tận dụng mọi cơ hội để có thể giúp những người cộng sản ở phương Tây hiểu rõ
hơn về thuộc địa.
Thông qua các nội dung và những phân
tích một cách khoa học đặc điểm của các nước phương Đông nói chung và Việt Nam
nói riêng, bài viếtBáo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ (1924) của
Nguyễn Ái Quốc đã tập trung nêu rõ: Tính chất cuộc đấu tranh giai cấp ở phương
Đông không diễn ra quyết liệt như ở phương Tây; đề cao chủ nghĩa yêu nước, coi
chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước; sự cần thiết phải vận dụng sáng
tạo, bổ sung và phát triển học thuyết Mác cho phù hợp với điều kiện của từng
quốc gia, đặc biệt là phương Đông. Theo Nguyễn Ái Quốc:
“Mác đã xây dựng học thuyết của mình
trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử châu Âu. Mà
châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại”(22), vì vậy phải xem xét lại
“cơ sở lịch sử của nó, củng cố nó bằng dân tộc học phương Đông” (23).
Những luận điểm và kiến nghị trong
báo cáo của Người với Quốc tế Cộng sản, về tình hình, đặc điểm của Việt Nam,
thể hiện sự sâu sát thực tế và việc vận dụng những nguyên lý cơ bản của học
thuyết Mác – Lênin vào thực tiễn Việt Nam của Nguyễn Ái Quốc, có ý nghĩa như
một phương hướng chung, có tính chất như một cương lĩnh hành động của cách mạng
Việt Nam. Báo cáo nhấn mạnh việc:
1. Phát động chủ nghĩa dân tộc bản
xứ nhân danh Quốc tế Cộng sản;
2. Đẩy mạnh công tác tuyên
truyền và đào tạo cán bộ cho cách mạng Việt Nam;
3. Dự báo về khả năng một cuộc khởi
nghĩa vũ trang ở Đông Dương và nó phải được sự ủng hộ của nước Nga Xôviết, của
giai cấp vô sản toàn thế giới.
Trong điều kiện lịch sử khi đó,
những ý kiến trong Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳthể hiện một tư
duy sắc sảo, một thái độ dũng cảm của Nguyễn Ái Quốc trong việc khẳng định:
Thực tiễn là tiêu chuẩn, là sự kiểm nghiệm của chân lý. Mặt khác, báo cáo cũng
thể hiện sự nắm vững linh hồn, phương pháp của học thuyết Mác và sự vận
dụng sáng tạo của Người trong điều kiện cụ thể của Việt Nam.
Với hơn một năm sống, học tập và làm
việc trên đất nước Xôviết, dù thời gian không dài, song những nghiên cứu về lý
luận, những hoạt động thực tiễn đã giúp Nguyễn Ái Quốc có điều kiện trang
bị cho mình vốn kiến thức lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin một cách hệ thống.
Đồng thời, Người có điều kiện khảo nghiệm, chứng kiến những thành tựu của Nhà
nước và nhân dân Xôviết. Những hoạt động sôi nổi của Nguyễn Ái Quốc, đã đanh
thép tố cáo tội ác thực dân, nhận thức và luận giải một cách khoa học những vấn
đề về thuộc địa, vai trò cách mạng thuộc địa trong mối quan hệ khăng khít với
sự nghiệp cách mạng của giai cấp vô sản thế giới.
Không chỉ nắm vững những vấn đề cơ
bản của học thuyết Mác – Lênin, Nguyễn Ái Quốc còn đề xuất nhiều luận điểm và
phát triển một cách sáng tạo lý luận về cách mạng thuộc địa của Lênin, làm
phong phú lý luận Mác – Lênin về cách mạng giải phóng dân tộc trong quỹ đạo
cách mạng vô sản. Được sống, học tập tại trung tâm cách mạng thế giới, được làm
việc tại Quốc tế Cộng sản, được đấu tranh và rèn luyện trong phong trào cộng sản
quốc tế, nhận thức luận của Nguyễn Ái Quốc được nâng cao, uy tín chính trị của
Nguyễn Ái Quốc được củng cố.
Không dừng lại ở đó, nhận thức được
sứ mệnh của mình và hướng đến mục tiêu: Độc lập cho Tổ quốc, tự do cho đồng
bào, với tất cả tinh thần và nhiệt huyết của mình, Nguyễn Ái Quốc chọn con
đường về gần Tổ quốc, xúc tiến một lộ trình cho công cuộc giải phóng dân tộc
Việt Nam. Khi biết sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, hiện có nhiều thanh niên
yêu nước Việt Nam đang có mặt ở Quảng Châu, họ yêu nước, nhưng chưa có tổ chức
và thiếu một đường lối đúng đắn trong hoạt động, Nguyễn Ái Quốc đã chọn
Quảng Châu làm điểm dừng chân trên hành trình tiến gần về Tổ quốc, để tổ chức,
đoàn kết, huấn luyện những thanh niên đầy nhiệt huyết đó đưa họ ra đấu tranh
giành tự do, độc lập.
Sau nhiều lần đề đạt, nguyện vọng
của Nguyễn Ái Quốc được Quốc tế Cộng sản chấp nhận. Với tư cách là cán bộ Ban
Phương Đông của Quốc tế Cộng sản, đồng thời là Uỷ viên Đoàn Chủ tịch Quốc tế
Nông dân, Nguyễn Ái Quốc được giao theo dõi và chỉ đạo phong trào cách mạng ở
một số nước châu Á.
Cuối tháng 10-1924, Nguyễn Ái Quốc
rời Mátxcơva, đi xuyên Xibêri, nghỉ lại ở Vlađivôxtốc, rồi xuống tàu Viễn Dương
của Liên Xô đi Trung Quốc. Người đến Quảng Châu ngày 11-11-1924, xúc tiến việc
chuẩn bị thành lập chính đảng vô sản kiểu mới cho giai cấp công nhân và dân tộc
Việt Nam.
NNắm tình hình và định hướng những
công việc cần phải làm, ngày 12-11-1924, Người viết thư gửi một đồng chí trong
Quốc tế Cộng sản báo tin:
“Tôi đã đến đây hôm qua, và đang ở
nhà đồng chí Bôrôđin với 2 hoặc 3 đồng chí Trung Quốc. Tôi chưa gặp ai cả.
Mọi người ở đây đều bận về việc Bác
sĩ Tôn lên phương Bắc.
Tôi sẽ viết thư cho đồng chí sớm”
(24).
Để chuẩn bị về tổ chức và tiếp tục
chuẩn bị về chính trị, tư tưởng cho sự ra đời của một đảng mácxít ở Việt Nam,
Người tiếp xúc với những người Việt Nam yêu nước đang hoạt động tại Quảng Châu.
Đầu tiên là những thanh niên hăng hái nhất trong i>Tâm Tâm xã.. Dần dần,
Người mở rộng địa bàn hoạt động của mình. Trong thư gửi một cán bộ phụ trách Ban
Phương Đông của Quốc tế Cộng sản, ngày 22-12-1924, Nguyễn Ái Quốc báo cáo:
“Tôi đã tìm thấy ở đây vài người
Đông Dương mà với họ, tôi hy vọng làm được việc gì đó” (25).
Những hoạt động bước đầu đã giúp
Nguyễn Ái Quốc tìm được chỗ dựa, hình thành được nhóm trung kiên để triển khai
công việc. Từ việc nắm rõ những đặc điểm, tình hình đời sống kinh tế, chính
trị, xã hội của Việt Nam được thể hiện rõ trong báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và
Nam Kỳ, Nguyễn Ái Quốc đã khẩn trương, chủ động và cẩn trọng tiến hành xây dựng
tổ chức cách mạng theo từng bước: tiếp xúc và tìm hiểu những người Việt Nam yêu
nước đang hoạt động ở miền Nam Trung Quốc, để lập ra nhóm bí mật làm hạt nhân
(Báo cáo gửi Đoàn Chủ tịch Quốc tế Cộng sản ngày 19-2-1925):
“Chúng tôi đã lập một nhóm bí mật
gồm 9 hội viên, trong đó có:
2 người đã được phái về nước.
3 người ở tiền tuyến (trong quân đội
của Tôn Dật Tiên).
1 người đang đi công cán quân sự
(cho Quốc dân Đảng).
Trong số hội viên đó, có 5 người đã
là đảng viên dự bị của Đảng Cộng sản”(26).
Bước tiếp theo, Người tiến tới thành
lập một tổ chức có tính chất quần chúng rộng hơn nhằm tập hợp những thanh niên
yêu nước trong và ngoài nước. Đó là tổ chức Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên
được thành lập 6-1925. Được tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ, cấp dưới
phục tùng cấp trên, thiểu số phục tùng đa số, lấy tự phê bình và phê bình làm
phương châm phát triển của mình, trongHội Việt Nam Cách mạng Thanh niên,
tất cả các hội viên phải hoạt động trong quần chúng, tuyệt đối giữ bí mật hoạt
động của hội. Hội được tổ chức thành 5 cấp: Tổng bộ, kỳ bộ, tỉnh bộ, huyện bộ
và chi bộ.
Mục đích của hội llà:
“Hy sinh tính mệnh, quyền lợi, tư
tưởng để làm cuộc cách mạng dân tộc (đập tan bọn Pháp và giành lại được độc lập
cho xứ sở) rồi sau làm cách mệnh thế giới (lật đổ chủ nghĩa đế quốc và thực
hiện chủ nghĩa cộng sản)” (27).
Điều lệ của hội đề cập đến Chương
trình hoạt động như kết nạp hội viên; tổ chức các đoàn thể như Công hội, Nông
hội, Hội học sinh, Hội phụ nữ…, thành lập chính phủ nhân dân, đoàn kết với các giai
cấp vô sản của tất cả các nước và thành lập xã hội cộng sản.Điều lệ còn quy
định cụ thể về điều kiện vào hội, lề lối tổ chức, cơ cấu các cấp trung ương, xứ
uỷ, tỉnh uỷ, huyện uỷ, chi bộ, vấn đề tiến hành hội nghị thường kỳ của các cấp
và hội nghị toàn quốc, kỷ luật và nhiệm vụ của hội viên…
Việc thành lậpHội Việt Nam Cách mạng
Thanh niên là một sáng tạo, có chủ đích của Nguyễn Ái Quốc. Đây là một tổ chức
quá độ, phù hợp với điều kiện của Việt Nam khi đó, nhằm đưa chủ nghĩa Mác –
Lênin, đường lối và phương pháp đấu tranh cách mạng mới vào phong trào đấu
tranh yêu nước của nhân dân ta. Thông qua những hội viên của Hội Việt Nam Cách
mạng Thanh niên, thông qua phong trào vô sản hoá, luồng tư tưởng mới của thời
đại đã xâm nhập vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước, làm thay đổi
tính chất, chiều hướng của phong trào đấu tranh cách mạng, đưa đến sự thắng lợi
của khuynh hướng vô sản. Thông qua những nội dung hoạt động của mình, hội đã
thu hút đông đảo các lực lượng vào tổ chức cách mạng của mình, đồng thời có ảnh
hưởng tích cực đến các tổ chức chính trị cùng thời khác.
Đã có một tổ chức, một điểm tựa,
Nguyễn Ái Quốc mở lớp huấn luyện chính trị để chuẩn bị xây dựng một đội ngũ cán
bộ làm nòng cốt cho việc tuyên truyền những nguyên lý cơ bản của học thuyết Mác
– Lênin về trong nước. Lớp học chính thức khai mạc cuối năm 1925 tại ngôi nhà
số 13 và 13/1 (nay là nhà số 248 – 250), đường Văn Minh, Quảng Châu, Trung
Quốc. Từ đầu năm 1926 đến tháng 4-1927, Nguyễn Ái Quốc đã mở được ba khóa huấn
luyện cho khoảng 75 người (28). Người trực tiếp phụ trách và là giảng viên
chính. Chương trình học tập bao gồm cả lý thuyết lẫn thực hành. Thông qua huấn
luyện, các học viên được vũ trang những vấn đề sơ giản về chủ nghĩa Mác –
Lênin, về những nguyên tắc hoạt động bí mật và kỹ năng thực hành các công tác
vận động quần chúng… Sau này, những bài giảng của Người được tập hợp, hoàn
thiện trong cuốn Đường Kách mệnh. Tuyệt đại bộ phận học viên học xong đều trở
về nước và về Xiêm hoạt động. Họ đã trở thành những người tuyên truyền, tổ chức
các tổ chức cách mạng trong nước và Việt kiều ở Xiêm.
Với tầm nhìn chiến lược, với vị thế
cán bộ của Ban Phương Đông, Nguyễn Ái Quốc lựa chọn những thanh niên Việt Nam
có khả năng, gửi đi học Trường đại học Cộng sản của những người lao động Phương
Đông ở Mátxcơva (Trường đại học Phương Đông) và Trường quân sự Hoàng Phố ở
Quảng Châu. Không chỉ dừng lại ở việc lựa chọn và cử những thanh niên đi đào
tạo, Người còn muốn gửi những thiếu nhi độ tuổi từ 12-15 có mặt ở Quảng Châu,
đang là “những thiếu nhi cộng sản đầu tiên của nước An Nam” sang Mátxcơva để
đào tạo, nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ cốt cán đáp ứng yêu cầu của cách mạng
Việt Nam sau này.
Cùng với việc đào tạo đội ngũ cán
bộ, Nguyễn Ái Quốc chủ trương xuất bản sách và báo chí làm phương tiện tuyên
truyền.Báo Thanh niên, cơ quan ngôn luận củaHội Việt Nam Cách mạng Thanh niên
do Nguyễn Ái Quốc sáng lập và trực tiếp chỉ đạo, đồng thời là cây bút chủ chốt
(số đầu tiên ra ngày 21-6-1925), có các chuyên mục: xã hội, bình luận, tin tức,
diễn đàn, vấn đáp, phê bình, trả lời bạn đọc, v.v.. Những bài viết của báoThanh
niên đều ngắn gọn, lời văn giản dị, trong sáng, dễ hiểu, thường đề cập những
vấn đề chính: đế quốc và thuộc địa; cách mạng và cải lương; thực tiễn của cách
mạng Việt Nam; đảng cách mạng và Đảng Cộng sản; cách mạng dân tộc và cách mạng
thế giới; cách mạng và mặt trận dân tộc thống nhất; học tập lý luận chủ nghĩa
Mác – Lênin, v.v.. Thông qua báoThanh niên, tổ chứcHội Việt Nam Cách mạng Thanh
niên đã thống nhất về phương hướng và nội dung tuyên truyền giáo dục ở trong và
ngoài hội.
Báo Thanh niên ra hằng tuần, bằng
tiếng Việt. Từ tháng 6-1925 đến tháng 4-1927, báo ra được 88 số. Là tờ báo đầu
tiên trong lịch sử báo chí cách mạng nước ta, báoThanh niên đã góp phần quan
trọng vào việc truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin vào Việt Nam, chuẩn bị về chính
trị, tư tưởng và tổ chức để tiến tới thành lập chính đảng kiểu mới của giai cấp
công nhân Việt Nam.
Tiếp theo tờ Thanh niên, Nguyễn Ái
Quốc cùng các bạn chiến đấu của mình còn xuất bản ba tờ báo định kỳ khác là:
báo Công nông (từ tháng 12 – 1926 đến đầu năm 1928), bán nguyệt sanLính cách
mệnh (từ đầu năm 1927 đến đầu năm 1928) vàViệt Nam tiền phong cho những đối
tượng hẹp hơn.
Cùng với việc xuất bản báo, Nguyễn
Ái Quốc dành thời gian cho cuốn Đường Kách mệnh.Cuốn sách gồm những bài giảng
của Người tại các lớp huấn luyện chính trị cho cán bộ của Hội Việt Nam Cách
mạng Thanh niên ở Quảng Châu (Trung Quốc) trong những năm 1925-1927 được tập
hợp và hoàn thiện. Cuốn sách được Bộ Tuyên truyền của Hội liên hiệp các dân tộc
bị áp bức ở Á Đông xuất bản vào đầu năm 1927 để làm tài liệu học tập và tuyên
truyền.
Đường Kách mệnh đề cập nhiều nội
dung, trong đó Nguyễn Ái Quốc tập trung nêu rõ chuẩn mực đạo đức của những
chiến sĩ cách mạng; giới thiệu tính chất, nội dung các cuộc cách mạng điển hình
trên thế giới, như: Cách mạng Mỹ 1776, Cách mạng Pháp 1789, Cách mạng Nga 1917;
giới thiệu về Quốc tế I, Quốc tế II, Quốc tế III, v.v.. Thông qua những nội
dung này, Người chỉ rõ tư tưởng cách mạng triệt để: Muốn sống thì phải làm cách
mạng và muốn làm cách mạng thành công phải có đảng lãnh đạo, có chủ nghĩaMác –
Lênnin làm nòng cốt, phải có phương pháp cách mạng, v.v., phải gắn cách mạng
Việt Nam là một bộ phận khăng khít của phong trào cách mạng thế giới. TừĐường
Kách mệnh, Người khẳng định: cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp của toàn
dân chứ không phải của một vài cá nhân, vì vậy đoàn kết trong đảng, đoàn kết
toàn dân tộc là một trong những nhân tố quan trọng bảo đảm thắng lợi cho cách
mạng Việt Nam… Phần cuối Đường Kách mệnh, Nguyễn Ái Quốc dành giới thiệu các tổ
chức quần chúng của Quốc tế Cộng sản như Quốc tế Thanh niên, Quốc tế Công hội.
Đường Kách mệnh là một trong những
tác phẩm quan trọng, đánh dấu một bước ngoặt trong cuộc đời hoạt động cách mạng
của Nguyễn Ái Quốc, đồng thời là một trong những văn kiện lý luận đầu tiên của
Đảng ta, đặt cơ sở tư tưởng cho đường lối của cách mạng Việt Nam sau này. Cùng
với Đường Kách mệnh và báo Thanh niên, các tờ báo và nguyệt san bí mật được
chuyển về Việt Nam, đã góp phần quan trọng vào việc truyền bá chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng và con đường giải phóng dân tộc của Nguyễn Ái Quốc, chuẩn bị về
chính trị, tư tưởng và tổ chức để tiến tới thành lập bộ tham mưu tiền phong của
giai cấp công nhân Việt Nam.
Trong những năm tháng hoạt động cách
mạng ở Trung Quốc, Nguyễn Ái Quốc thể hiện vai trò của người chiến sĩ cộng sản
quốc tế. Người tham gia những hoạt động giúp đỡ phong trào cách mạng các nước
trong khu vực, đặc biệt là phong trào cách mạng của Trung Quốc những năm
1925-1927. Người đã cùng với các đồng chí Trung Quốc, Ấn Độ, Triều Tiên, Miến
Điện tích cực vận động thành lập một tổ chức cách mạng có tính chất quốc tế
-Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức (9-7-1925), nhằm đoàn kết các dân tộc nhỏ
yếu, bị áp bức trong một tổ chức cách mạng để giải phóng đất nước khỏi ách thực
dân, đưa các dân tộc bị nô lệ vào con đường đấu tranh giải phóng dân tộc.
Đối với phong trào cách mạng Trung
Quốc, Người không chỉ bày tỏ thiện cảm, sự quan tâm và ủng hộ mà còn tham gia
trực tiếp như một chiến sĩ quốc tế nồng nhiệt. Người tham gia Hội nghị đầu tiên
của đại biểu nông dân Quảng Đông (tháng 5-1925) và Hội nghị lần thứ hai đại
biểu giai cấp công nhân Trung Quốc; tham gia đội diễn thuyết, ủng hộ cuộc đấu
tranh của giai cấp công nhân Trung Quốc với bí danh Lý Thụy và Vương Đạt Nhân…
Thông qua những hoạt động thực tiễn đó, Nguyễn Ái Quốc đã thể hiện một cách
sinh động tinh thần quốc tế vô sản cao cả.
Sau cuộc đảo chính phản cách mạng
của Tưởng Giới Thạch (4-1927), những người cách mạng Việt Nam hoạt động trên
đất Trung Quốc đã trở thành đối tượng của sự khủng bố. Không thể tiếp tục ở lại
Quảng Châu, Nguyễn Ái Quốc chuyển đến Hương Cảng, nhưng mật thám Anh lại yêu
cầu Người phải rời Hương Cảng. Người đi Thượng Hải, nhưng tại đây, Quốc dân
Đảng cũng đang tiến hành những đợt khủng bố gắt gao, vì vậy, Người quyết định
rời Thượng Hải trên một chiếc tàu buôn đi Vlađivôxtốc.
Tháng 5-1927, Nguyễn Ái Quốc trở lại
Mátxcơva sau gần ba năm xa cách, tiếp tục làm việc trong Quốc tế Cộng sản. Sau
ít ngày nghỉ ngơi trên bãi biển Crưm, Người quay trở lại Mátxcơva. Người bắt
tay viết cuốn sách nhỏ Công tác quân sự của Đảng trong nông dân, đúc kết kinh
nghiệm cao trào cách mạng và các đảng cộng sản ở các nước nông nghiệp và nửa
nông nghiệp, nêu tầm quan trọng của công tác tuyên truyền chính trị, tổ chức và
quân sự trong nông dân, đặc biệt là công tác quân sự của đảng trong nông dân,
v.v.. Người cũng từ tìm hiểu, nghiên cứu và viết nhiều bài về Ấn Độ và được
công bố vào năm 1928 như: Phong trào công nhân ở Ấn Độ (Inpreko, tiếng Pháp, số
37, 21-4-1928), Sự bóc lột phụ nữ và trẻ em Ấn Độ (Inpreko, tiếng Pháp, số 39,
14-4-1928), v.v.. Đặc biệt, trong bài viết Sự thống trị của đế quốc Pháp ở Đông
Dương đăng trên tập san Thư tín quốc tế, số 104, 1927, Nguyễn Ái Quốc đề cập
bản chất sự kiện chính trị thời sự (xung đột Hoa – Việt ở Hải Phòng) của nước
ta khi đó.
Trung tuần tháng 11-1927, Người được
Quốc tế Cộng sản cử đi Pháp công tác. Đầu tháng 12-1927, từ Pháp Người đi dự
phiên họp mở rộng của Đại hội đồng Liên đoàn chống đế quốc tại Brúcxen (Bỉ).
Sau khi mật thám Pháp phát hiện sự có mặt của Nguyễn Ái Quốc tại Pháp, Người
quyết định thay đổi hành trình. Bí mật quay trở lại Đức vào trung tuần tháng
12-1927, và ở đây Người nhận làm phóng viên cho tờ báo Thế giới (Die Welt).
Không lâu sau, theo nguyện vọng của Người, Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản ra
quyết định đồng ý để Nguyễn Ái Quốc trở về hoạt động ở Đông Dương (25-4-1928).
Ngày 21-5-1928, từ Béclin Nguyễn Ái Quốc viết thư gửi các đồng chí trong Ban
Phương Đông Quốc tế Cộng sản, báo tin về việc chuẩn bị lên đường và những việc
đã làm (29).
Đầu tháng 6-1928, Nguyễn Ái Quốc rời
Béclin, bắt đầu cuộc hành trình để về gần Tổ quốc. Từ Đức, Người qua Thụy Sĩ
đến Italia. Tại biên giới Thuỵ Sĩ – Italia, mặc dù bị cảnh sát gây khó dễ nhưng
Người cũng vượt qua được và đi Milan, rồi từ Rôma, Người đến Napôli, đáp tàu
thuỷ Nhật Bản đi Xiêm.
Từ tháng 7-1928 đến tháng 11-1929,
Nguyễn Ái Quốc hoạt động ở Xiêm (từ năm 1938 gọi là Thái Lan), xây dựng lực
lượng cách mạng trong Việt kiều yêu nước. Đầu tiên, Người tới Băng Cốc, từ đó,
đi Bản Đôn (huyện Phì Chịt, tỉnh Phítxanuloốc). Để giữ bí mật, Người dùng một
số bí danh như Thọ, Nam Sơn, Thầu Chín, v.v.. Cuối tháng 7-1928, Nguyễn Ái Quốc
rời Phì Chịt đến vùng Đông Bắc Xiêm như Uđon Thani, Xa Vang, Na Khôn Pha Nôm,
Noọng Khai, v.v., để xây dựng cơ sở, từ đó tuyên truyền chủ nghĩa Mác – Lênin
và phong trào đấu tranh cách mạng, gây ảnh hưởng về trong nước.
Từ một thực tế Việt kiều sinh sống ở
Xiêm phần nhiều là nông dân, thợ thủ công và những người buôn bán nhỏ, cho nên,
trong thời gian ở đây, Người tiếp tục các hình thức hoạt động như ở Quảng Châu.
Người hoà mình với đông đảo quần chúng, sống đời sống của quần chúng, làm những
việc cùng với quần chúng, phát hành báo chí (đổi tên tờ báo Đồng thanh thành
Thân ái và ra được hai số), mở lớp đào tạo ngắn hạn cho hội viên của chi hội
Việt Nam Cách mạng Thanh niên, nắm tình hình trong nước và Quốc tế Cộng sản,
dịch một sách mácxít phổ thông sang tiếng Việt (Nhân loại tiến hoá sử, A.B.C
chủ nghĩa cộng sản, v.v..). Với sự hoạt động tích cực của Người, phong trào yêu
nước của Việt kiều ở Xiêm đã có nhiều chuyển biến mới, tích cực. Các tổ chức
cách mạng được củng cố và phát triển. Sự đoàn kết trong nội bộ Việt kiều, mối
quan hệ thân thiện giữa Việt kiều và người Xiêm được tăng cường. Những hoạt
động cách mạng của Nguyễn Ái Quốc trong Việt kiều đã có ảnh hưởng tốt về trong
nước.
CCũng trong khoảng thời gian từ
tháng 7-1928 đến tháng 11-1929, Nguyễn Ái Quốc, lúc đó với tên gọi Thầu Chín từ
Xiêm vượt sông Mê Kông ít nhất hai lần sang thị xã Xavănnakhẹt và bản Xiêng
Vang, huyện Noọng Bốc, tỉnh Khăm Muộn của Lào để nghiên cứu tình hình kinh tế,
chính trị, xã hội của nhân dân Lào, của bà con Việt kiều và khảo sát thực địa
để tìm đường bí mật qua Lào về hoạt động tại Việt Nam (30). Sau này, trong báo
cáo gửi Quốc tế Cộng sản ngày 18-2-1930, Người đã báo cáo về tình hình Lào và
việc định trở về Việt Nam không thành:
“Đã hai lần tôi cố gắng về An Nam,
nhưng phải quay trở lại. Bọn mật thám và cảnh sát ở biên giới quá cẩn mật, đặc
biệt là từ khi xảy ra vụ An Nam “Quốc dân đảng” (31).
Trong những năm 1928-1929, phong
trào đấu tranh cách mạng của nhân dân ta tiếp tục phát triển mạnh về số lượng
và chất lượng. Chủ nghĩa Mác – Lênin được Nguyễn Ái Quốc và những chiến sĩ tiên
phong truyền bá về trong nước, cùng với phong trào “vô sản hoá” đã làm chuyển
biến phong trào công nhân từ hình thức đấu tranh tự phát, đơn lẻ, chủ yếu đòi
quyền lợi về kinh tế sang đấu tranh tự giác, có tổ chức, có lãnh đạo, có sự
phối hợp giữa các ngành và các địa phương. Sự phát triển cả bề sâu và bề rộng
của phong trào cách mạng trong cả nước đã đặt ra một yêu cầu bức thiết, đòi hỏi
sự lãnh đạo của một chính đảng kiểu mới của giai cấp công nhân. Trong bối cảnh
đó, những phần tử tiên phong trong phong trào cách mạng đã nhận thức được tình
hình, và đứng ra thành lập những tổ chức cộng sản đầu tiên vào nửa cuối năm
1929 đầu năm 1930.
Ngày 17-6-1929, tại nhà số 312 phố
Khâm Thiên, Hà Nội, Hội nghị các đại biểu tiên tiến trong tổ chức Thanh niên
Bắc Kỳ đã họp, quyết định thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng, raChính cương,
Tuyên ngôn, nêu rõ đường lối của Đảng là phải làm cách mạng dân chủ tư sản do
giai cấp vô sản lãnh đạo,tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa, thực hành công –
nông liên hiệp. Sự ra đời của Đông Dương Cộng sản Đảng đã thúc đẩy phong trào
cộng sản ở trong nước phát triển mạnh.
Tiếp đến An Nam Cộng sản Đảng đã ra
đời (8-1929) và đến tháng 10-1929, An Nam Cộng sản Đảng đã họp tại Sài
Gòn, cử ra Ban lâm thời chỉ đạo của Đảng và ra Điều lệ.
Trong quá trình chuyển hoá chung
dưới tác động của luồng gió cách mạng của thời đại theo chủ nghĩa Mác – Lênin,
trực tiếp là tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc, phong trào công nhân, nhất là của Hội
Việt Nam Cách mạng Thanh niên, Việt Nam nghĩa đoàn – một tổ chức yêu nước tiến
bộ theo khuynh hướng quốc gia, đã trải qua nhiều biến thiên và cải tổ, thay đổi
tên nhiều lần: Việt Nam nghĩa đoàn đổi tên thành Hội Phục Việt rồi đến Hưng Nam
và Việt Nam cách mạng Đảng, đến tháng 7-1928 gọi là Tân Việt cách mạng Đảng. Từ
khi tổ chức này tiếp cận và tiếp nhận sự giáo dục chính trị của Thanh niên đã
bắt đầu khuynh hướng tả, càng về sau càng chuyển biến mạnh mẽ. Sau các hội nghị
của đảng viên cốt cán, tháng 9-1929 những đảng viên ưu tú trong Đảng Tân Việt
ra tuyên bố thành lập Đông Dương Cộng sản Liên đoàn (32).
Như vậy, trong nước đã xuất hiện ba
tổ chức cộng sản, đều ra Tuyên ngôn, Chính cương vàĐiều lệ, đều khẳng định mục
tiêu đấu tranh cho lý tưởng của chủ nghĩa cộng sản, đều tuyên bố đi theo chủ
nghĩa cộng sản, đều muốn được Quốc tế Cộng sản công nhận. Sự tồn tại ba tổ chức
cộng sản biệt lập, tranh giành ảnh hưởng lẫn nhau trong một đất nước, đã dẫn
đến nguy cơ chia rẽ, phân liệt của phong trào đấu tranh cách mạng. Yêu cầu cấp
bách của cách mạng Việt Nam lúc này là phải chấm dứt tình trạng chia rẽ giữa
các tổ chức cộng sản, thống nhất các tổ chức đó thành một đảng cộng sản duy
nhất trong cả nước. Nhận thức sâu sắc về nguy cơ phân liệt sẽ gây bất lợi cho
sự phát triển của phong trào cách mạng ở Việt Nam, ngày 27-10-1929, Quốc tế
Cộng sản đã ra chỉ thị, nêu rõ:
“Nhiệm vụ quan trọng nhất và cấp
bách nhất của tất cả những người cộng sản Đông Dương là thành lập một đảng cách
mạng có tính chất giai cấp của giai cấp vô sản, nghĩa là một đảng cộng sản có
tính chất quần chúng ở Đông Dương. Đảng đó phải chỉ có một và là tổ chức cộng
sản duy nhất ở Đông Dương” (33).
Lúc này, Nguyễn Ái Quốc đang hoạt
động ở Xiêm, không biết tới nội dung bảnchỉ thị ngày 27-10-1929 của Quốc tế
Cộng sản, tuy nhiên, nhận thức được tầm quan trọng nguy cơ phân liệt, “với tư
cách là phái viên của Quốc tế Cộng sản có đầy đủ quyền quyết định mọi vấn đề
liên quan đến phong trào cách mạng ở Đông Dương” (34), Người gấp rút đi Hồng
Kông, gửi thư về nước mời đại diện của các tổ chức cộng sản sang Hồng Kông bàn
việc hợp nhất các tổ chức cộng sản. Với quyết định chủ động và kịp thời này,
cuối năm 1929, Nguyễn Ái Quốc rời Xiêm và ngày 23-12, Người đến Trung Quốc, gặp
gỡ những chiến sĩ cách mạng Việt Nam đang hoạt động ở đây để tìm hiểu thêm tình
hình. Sau đó, Người đi Hồng Kông, chuẩn bị công việc cho hội nghị hợp nhất.
Tại Cửu Long, Hồng Kông, từ ngày
6-1-1930, Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản đã được tiến hành dưới sự chủ
trì của Nguyễn Ái Quốc. Tham dự hội nghị có các đại biểu của Đông Dương Cộng
sản Đảng là Trịnh Đình Cửu và Nguyễn Đức Cảnh; An Nam Cộng sản Đảng là Nguyễn
Thiệu và Châu Văn Liêm. Đông Dương Cộng sản liên đoàn đã thành lập, song chưa
có liên hệ, nên chưa cử được đại biểu tới dự. Tham gia giúp việc hội nghị là Hồ
Tùng Mậu và Lê Hồng Sơn. Hội nghị hợp nhất diễn ra khẩn trương, thuận lợi và
đạt được sự nhất trí hoàn toàn, trên cơ sở bỏ mọi thành kiến xung đột cũ, đặt
tên đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược
vắn tắt, Điều lệ vắn tắt,Chương trình tóm tắt của Đảng do Nguyễn Ái Quốc dự
thảo. Các văn kiện này trở thànhCương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng.
Chính cương vắn tắt của Đảng Cộng
sản Việt Nam vạch rõ tính chất, nhiệm vụ, đối tượng của cách mạng Việt Nam,
trong đó xác định rõ chủ trương của những người cộng sản là làm “tư sản dân
quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tớixã hội cộng sản. Nhiệm vụ của
cuộc cách mạng lúc này là đánh đổ đế quốc Pháp và bọn phong kiến, làm cho nước
Nam được hoàn toàn độc lập; dân chúng được tự do tổ chức; nam nữ bình quyền;
phổ thông giáo dục theo công nông hoá; quốc hữu hoá tất cả các xí nghiệp của tư
bản đế quốc; dựng ra chính phủ công nông binh; tổ chức ra quân đội công nông;
thủ tiêu hết các thứ quốc trái; thi hành luật ngày làm 8 giờ, v.v..
SSách lược vắn tắt của Đảng nêu rõ:
1. “Đảng là đội tiên phong của vô
sản giai cấp, phải thu phục cho được đại bộ phận giai cấp mình, phải làm cho
giai cấp mình lãnh đạo được dân chúng.
2. Đảng phải thu phục cho được đại
bộ phận dân cày và phải dựa vào hạng dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng đánh
trúc bọn đại địa chủ và phong kiến” (35).
Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu
tư sản, trí thức, trung nông để kéo họ đi về phe vô sản giai cấp. Còn đối với
bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách
mạng thì phải lợi dụng. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng thì phải đánh đổ.
Đồng thời Sách lược vắn tắt nhấn mạnh nguyên tắc hợp tác giai cấp của Đảng là:
khi liên lạc với các giai cấp, phải rất cẩn thận, không khi nào nhượng bộ một
chút lợi ích gì của công – nông mà đi vào đường lối thoả hiệp. Đảng phải đồng
thời tuyên truyền và thực hành liên lạc với bị áp bức dân tộc và vô sản giai
cấp thế giới, nhất là vô sản giai cấp Pháp.
Chương trình tóm tắt của Đảng nêu rõ
Đảng là đội tiên phong của đạo quân vô sản, có nhiệm vụ “tập hợp đa số quần
chúng nông dân, chuẩn bị cách mạng thổ địa và lật đổ bọn địa chủ và phong kiến”
(36); lôi kéo tiểu tư sản, trí thức và trung nông về phía giai cấp vô sản; liên
kết những dân tộc bị áp bức và quần chúng vô sản trên thế giới, v.v..
Điều lệ vắn tắt của Đảng nêu rõ tôn
chỉ, mục đích của Đảng là lãnh đạo quần chúng đấu tranh để “tiễu trừ tư bản đế
quốc chủ nghĩa thực hiện xã hội cộng sản” (37); quy định thể thức gia nhập
Đảng; hệ thống tổ chức; trách nhiệm của đảng viên; quyền lợi đảng viên; các cấp
đảng chấp hành uỷ viên; kinh phí; kỷ luật của Đảng.
Hội nghị hợp nhất cũng đã thảo luận
và quyết định các phương châm và kế hoạch tiến hành hợp nhất các tổ chức cộng
sản trong nước, về cách cử ra một Ban Trung ương lâm thời. Trong ngày làm việc
cuối cùng, hội nghị đã quyết nghị về việc xuất bản một tạp chí lý luận và ba tờ
báo để tuyên truyền.
Sau hội nghị, Nguyễn Ái Quốc thay
mặt Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản Việt Nam, viết Lời kêu gọi gửi công nhân,
nông dân, binh lính, thanh niên, học sinh và tất cả đồng bào bị áp bức, bóc lột
phải đánh đổ đế quốc Pháp, phong kiến và giai cấp tư sản phản cáchmạng để giành
được độc lập; thành lập Chính phủ công – nông binh và tịch thu tất cả các nhà
hàng, cơ sở sản xuất của đế quốc trao cho chính phủ; tiến tới quốc hữu hoá toàn
bộ đồn điền và đất đai của đế quốc và địa chủ phản cách mạng chia cho nông dân
nghèo; thực hiện ngày làm 8 giờ, v.v.. Lời kêu gọi là một trong những văn kiện
quan trọng của hội nghị hợp nhất. Nó xác định rõ đường lối, mục tiêu, phương
châm của cách mạng Việt Nam trước mắt và lâu dài, đó là: “Làm cho nước An Nam
được độc lập. Thành lập Chính phủ công – nông -binh” (38). Ngày 8-2-1930, các
đại biểu dự hội nghị thành lập Đảng đã về nước. Sau đó, ngày 24-2-1930, một hội
nghị quan trọng được tổ chức tại Sài Gòn để xem xét yêu cầu gia nhập Đảng Cộng
sản của Đông Dương Cộng sản liên đoàn và nhất trí công nhận Đông Dương Cộng sản
liên đoàn được gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam.
Ba tổ chức cộng sản ở Việt Nam đã
thống nhất trong một đảng duy nhất – Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị hợp nhất
các tổ chức cộng sản đã hoàn thành trọn vẹn nhiệm vụ lịch sử trọng đại của
mình. Thành công của hội nghị và sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam gắn liền
với tên tuổi, trí tuệ, uy tín và đạo đức cách mạng, tính chủ động, sáng tạo của
Nguyễn Ái Quốc. Với uy tín và trí tuệ của mình, Nguyễn Ái Quốc đã hoàn thành sứ
mệnh lịch sử, trở thành Người sáng lập Đảng – Đảng của giai cấp công nhân và
dân tộc Việt Nam.
Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng
sản Việt Nam thành công tốt đẹp, có giá trị như một đại hội thành lập Đảng.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về vai trò lãnh
đạo cách mạng Việt Nam, mở đầu một thời kỳ mới trong lịch sử đấu tranh cách
mạng của nhân dân cả nước: thời kỳ giai cấp công nhân và đảng tiên phong của nó
đứng ở vị trí trung tâm, lãnh đạo phong trào cách mạng. Đường lối đúng đắn của
Đảng được thông qua tại Hội nghị hợp nhất đã quyết định nội dung, phương pháp,
bước đi của cách mạng Việt Nam, đưa nhân dân Việt Nam bước vào cuộc đấu tranh
vì độc lập, tự do, cùng các dân tộc bị áp bức, đấu tranh giải phóng dân tộc,
xóa bỏ hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, góp phần giải phóng loài người
khỏi bóc lột và bất công.
VViệc tổ chức thành công Hội nghị
hợp nhất các tổ chức cộng sản dẫn đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, và
việc soạn thảo cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, Nguyễn Ái Quốc đã thể
hiện sự sáng tạo của mình trong cả hoạt động lý luận và thực tiễn. Đánh giá về
sự kiện trọng đại này trong lịch sử cách mạng Việt Nam hiện đại, Chủ tịch Hồ Chí
Minh viết:
“Việc thành lập Đảng là một bước
ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam ta. Nó chứng tỏ rằng
giai cấp vô sản nước ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng” (39).
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1,
tr. 28, tr.36.
3. Hồ Chí Minh – Biên niên tiểu sử,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, t. 1, tr. 148.
4. Hồ Chí Minh: Toàn tập,Sđd, t.1,
tr. 445.
5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1,
tr. 460.
6. Hồ Chí Minh: Toàn tập,Sđd, t. 1,
tr. 170.
7. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 2,
tr. 128.
8. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1,
tr. 456.
9. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 1,
tr. 195.
10,11 Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,
t.1, tr. 212, tr.478-479.
12. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.1,
tr. 478 – 479.
13. Hồ Chí Minh: Toàn
tập,Sđd, t.1, tr. 295.
14,15,16. Hồ Chí Minh: Toàn
tập, Sđd, t.1, tr. 273, 277, 289.
17. Hồ Chí Minh: Toàn tập,Sđd, t. 1,
tr. 293.
18. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.
2, tr. 120
19. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.
2, tr. 133.
20,21. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,
t. 1, tr. 243-244, 465.
22,23. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,
t.1, tr.465.
24. Hồ Chí Minh: Toàn tập,Sđd, t. 2,
tr. 4.
25. Hồ Chí Minh: Toàn tập,Sđd, t. 2
, tr. 15.
26. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.2,
tr. 141.
27. Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng
Trung ương: Các tổ chức tiền thân của Đảng, Hà Nội, 1977, tr. 82.
28. Hồ Chí Minh: Toàn tập,Sđd, t. 2,
tr. 241.
29. Hồ Chí Minh -Biên niên tiểu sử,
Sđd, t. 1, tr. 391.
30. Xem: Báo cáo kết quả đề tài khoa
học cấp bộ: “Nghiên cứu, sưu tầm tư liệu về Chủ tịch Hồ Chí Minh với tình đoàn
kết hữu nghị đặc biệt Việt – Lào”, lưu Kho tư liệu, Bảo tàng Hồ Chí Minh.
31. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3,
tr. 12.
32. Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng
Trung ương:Các tổ chức tiền thân của Đảng, Sđd, tr. 289 và Trần Văn Giàu: Thành
công của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, 1993, tr.153.
33. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện
Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, t.1, tr. 614.
34. Hồ Chí Minh: Toàn tập,Sđd, t. 3,
tr. 12.
35. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.3,
tr.3.
36,37. Hồ Chí Minh: Toàn tập,Sđd,
t.3, tr.4, 5.
38. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện
Đảng toàn tập, Sđd, t. 2, tr.16.
39. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd,
t.10, tr. 8.
(Theo sách “Hồ Chí Minh tiểu sử”;
tác giả: Bảo tàng Hồ Chí Minh, NXB Chính trị Quốc gia – Hà Nội, 2008. Bản đánh máy theo
Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam dangcongsan.vn).
Be the first to like this.
Bài này được đăng lúc 14:48 ngày
No comments:
Post a Comment