Tăng
Tuyết Minh,
người vợ Trung Quốc
của
Nguyễn Ái Quốc
Hoàng Tranh
“
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
sống độc thân suốt thời gian dài
lâu nhưng hoàn toàn không phải
Người suốt đời không lấy vợ.
Thực ra, Hồ Chí Minh từng có một
giai đoạn sống trong hôn nhân chính
thức. Đó là vào thời kì
những năm 20 đầu thế kỉ XX khi
người tiến hành công tác cách
mạng tại Quảng Châu, Trung Quốc. Nói
cụ thể là vào tháng 10 năm
1926, Hồ Chí Minh từng lấy cô gái
Quảng Châu Tăng Tuyết Minh làm vợ,
đã cử hành hôn lễ, sau khi cưới
đã chung sống với nhau hơn nửa
năm. Vào tháng 5 năm 1927, sau khi rời
Quảng Châu, Hồ Chí Minh đã mất
liên lạc với vợ và từ đó
không thể gặp lại nữa. Từ đó,
đôi tình nhân ấy, người
không bao giờ đi bước nữa, người
không một lần nào nữa cưới
vợ, mỗi người một phương trời,
đều sống độc thân cho đến
khi từ biệt cõi đời này.”
Tăng Tuyết Minh ở tuổi 20
“
Tăng Tuyết Minh, người
vợ Trung Quốc
của Hồ Chí Minh, quê ở huyện Mai
tỉnh Quảng Đông, sinh tháng 10 năm
1905 ở thành phố Quảng Châu. Thân
phụ của Tuyết Minh là Tăng Khai Hoa,
thời trẻ một mình đến Đàn
Hương Sơn (Honolulu) lúc đầu làm
công, sau buôn bán ; khi tích luỹ
được ít vốn liếng, trở về
nước tiếp tục buôn bán, gia cảnh
khấm khá, vui vẻ. Người vợ đầu
của ông Tăng Khai Hoa họ Phan, sinh được
hai trai một gái. Sau khi bà Phan bị bệnh
mất, ông lấy bà vợ kế họ
Lương là người huyện Thuận
Đức sinh được 7 cô con gái
nữa. Tăng Tuyết Mai là con út, bởi
vậy những người quen biết Tăng
Tuyết Minh thường gọi cô là “
cô Mười ”. Khi cô 10 tuổi thì
người cha qua đời, để lại một
chút bất động sản. Bà Lương
thị cùng Tuyết Minh sống qua ngày nhờ
vào tiền thuê nhà, gia cảnh không
được như trước. Năm 1918, mới
13 tuổi, Tuyết Minh đã bắt đầu
theo chị là Tăng Tuyết Thanh, một y sĩ
sản khoa, học việc hộ lí và đỡ
đẻ. Đầu năm 1923, người chị
ấy đưa Tăng Tuyết Minh đến
Phiên Ngu để học Cao đẳng tiểu
học. Nửa năm sau, Tăng Tuyết Thanh chẳng
may lìa đời, Tăng Tuyết Minh mất
đi nguồn chu cấp, ngay tháng 7 năm ấy
phải vào trường Hộ sinh Quảng
Châu học tập. Tháng 6 năm 1925, Tăng
Tuyết Minh tốt nghiệp trường trợ
sản, được ông hiệu trưởng
giới thiệu đến trạm y tế La Tú
Vân làm nữ hộ sinh. Chính thời
gian này Tăng Tuyết Minh làm quen với
Hồ Chí Minh lúc ấy đang tiến
hành công tác cách mạng ở
Quảng Châu.”
“
(...) Tháng 11 năm
1924, Hồ Chí Minh từ
Mạc Tư Khoa đến Quảng Châu, lấy
tên là Lý Thuỵ, làm việc tại
phòng phiên dịch của cố vấn
Borodin, thuộc Hội Lao Liên của Tôn
Trung Sơn, trú ngụ tại nhà hàng
của ông Bào tại quảng trường
Đông Hiệu. Sau những giờ làm công
tác phiên dịch, Hồ Chí Minh dành
nhiều thì giờ và tâm sức vào
công việc liên kết và tổ chức
các chiến sĩ cách mạng Việt Nam,
sáng lập tổ chức cách mạng Việt
Nam, huấn luyện cán bộ cách mạng
Việt Nam trong công tác. Trong thời gian ấy,
những thanh niên cách mạng Việt Nam
đến Quảng Châu trước như Hồ
Tùng Mậu, Lâm Đức Thụ đều
trở thành trợ thủ đắc lực
cho Người. Lâm Đức Thụ cùng
người vợ Trung Quốc của ông là
Lương Huệ Quần chính là ông
mối bà mối cho cuộc hôn nhân của
Hồ Chí Minh và Tăng Tuyết Minh.”
“
Lâm Đức Thụ vốn tên là
Nguyễn Công Viễn, người huyện Kiến
Xương, tỉnh Thái Bình, Việt Nam,
sinh năm 1890 (cùng tuổi với Hồ Chí
Minh). Hồ Chí Minh cùng với gia đình
Lâm Đức Thụ có thể nói là
chỗ giao hảo nhiều đời. Hai người
quen biết nhau từ thuở thiếu thời, lại
cùng chí hướng. Năm 1911, Hồ Chí
Minh đến châu Âu tìm chân lí
cách mạng, gần như đồng thời,
hưởng ứng lời hiệu triệu của
nhà chí sĩ chống Pháp lão
thành Phan Bội Châu, Lâm Đức Thụ
muốn Đông du qua Nhật, nhưng khi nổ
ra Cách mạng Tân Hợi, Phan Bội Châu
tới Trung Quốc, sáng lập Việt Nam
Quang phục hội ở Quảng Châu, Lâm
Đức Thụ theo Phan Bội Châu đến
Quảng Châu và gia nhập hội đó.
Đầu năm 1922, một số thanh niên
nhiệt huyết trong Việt Nam Quang phục hội
cảm thấy thất vọng về cánh già
bảo thủ nên đã li khai Quang phục
hội để lập ra một đoàn thể
cấp tiến hơn là Tâm tâm xã.
Sau khi đến Quảng Châu, Hồ Chí
Minh rất nhanh chóng liên hệ được
với Tâm tâm xã và quyết định
cải tạo tổ chức này thành một
tổ chức cách mạng chân chính
của giai cấp vô sản Việt Nam. Hồ
Chí Minh vốn quen biết Lâm Đức
Thụ từ trước nên ở Quảng
Châu Người coi Lâm là cốt cán
có thể tin cậy.”
“
Lâm Đức Thụ hoạt động ở
Quảng Châu một thời gian khá lâu.
Ở đây ông đã lấy cô
gái Trung Quốc Lương Huệ Quần làm
vợ. Mẹ của Lương Huệ Quần là
một thầy thuốc đã mở tại
thành phố Quảng Châu một dịch vụ
y tế. Lương Huệ Quần có làm
công tác y tá tại đó. Năm
1925, Tăng Tuyết Minh tốt nghiệp trường
Bảo sinh trợ sản, qua sự giới thiệu
của ông hiệu trưởng đã tới
cơ sở dịch vụ y tế của mẹ
Lương Huệ Quần làm cô đỡ
nên đã nhanh chóng quen biết với
Lương Huệ Quần và trở nên
thân thiết. Lương Huệ Quần lớn
hơn Tăng Tuyết Minh 3 tuổi nên cô
thường gọi là “ chị Quần ”,
hai cô đối xử với nhau như chị
em ruột.”
Nguyễn Ái Quốc ở tuổi 30
“
Lâm Đức Thụ sau năm 1927 đã
từng bước phản bội, li khai hàng
ngũ cách mạng Việt Nam làm không
ít điều nguy hại cho sự nghiệp
cách mạng Việt Nam. Nhưng tại thời
điểm mấy năm Hồ Chí Minh mới
đến Quảng Châu thì ông ta cũng
là một thanh niên cách mạng hăng
hái có triển vọng. Hồ Chí Minh
chẳng những được Lâm Đức
Thụ phối hợp và chi viện trong công
tác mà còn được Lâm giúp
đỡ cả về mặt kinh tế. Hồ Chí
Minh thậm chí đã đem cả chuyện
trăm năm của mình phó thác cho
Lâm Đức Thụ. Mùa hè năm
1926, Hồ Chí Minh đề xuất với Lâm
Đức Thụ rằng do việc công quá
bận rộn, anh cũng muốn tìm một cô
gái Trung Quốc để tiện trong cuộc
sống nơi cư trú có người
chăm sóc. Lâm Đức Thụ cùng
với vợ là Lương Huệ Quần bàn
bạc thấy Tăng Tuyết Minh là đối
tượng thich hợp bèn giới thiệu
cho Tăng Tuyết Minh và Hồ Chí Minh làm
quen với nhau. Hồ Chí Minh sau khi gặp mặt
Tăng Tuyết Minh đã rất có cảm
tình với cô gái Quảng Châu có
gương mặt trái xoan, da trắng nõn
điềm đạm, đoan trang, thông minh,
sáng dạ, vì vậy sau giờ làm
thường hẹn gặp và trò chuyện
với cô. Nơi gặp gỡ thường là
nhà Lương Huệ Quần. Cảm tình
của đôi bên ngày càng sâu
sắc, nhanh chóng đi đến trao đổi
về hôn lễ. Thời gian này Hồ Chí
Minh thường đưa Tăng Tuyết Minh đến
nhà hàng của ông Bào để
gặp phu nhân họ Bào và tranh thủ
ý kiến của bà về việc hôn
nhân của họ. Phu nhân họ Bào
nhiệt liệt tán thành việc kết
hôn của họ. Thế nhưng bà mẹ
Tăng Tuyết Minh ngay từ đầu không
đồng ý cuộc hôn nhân này
vì thấy Hồ Chí Minh là một nhà
cách mạng phiêu lưu bạt xứ, ở
không định nơi, con gái lấy người
như vậy rồi sẽ khổ đau một
đời. Đúng vào lúc ấy người
anh hai của Tăng Tuyết Minh là Tăng Cẩm
Tương, sau một thời gian sang Mỹ học
tập đã trở về Quảng Châu.
Anh gặp Hồ Chí Minh, dùng tiếng Anh
trò chuyện, thấy Hồ Chí Minh có
học vấn rất tốt, lão luyện và
cẩn trọng, lại tâm huyết với sự
nghiệp, vì thế anh đã thuyết
phục bà mẹ đồng ý với cuộc
hôn nhân này.”
“
Hồ Chí Minh gặp Tăng
Tuyết Minh luôn
luôn. Một mặt, cố nhiên, anh thích
tính giản dị, đoan trang, thông minh,
chăm chỉ của cô gái ; mặt khác
anh cũng cảm thấy cô còn non nớt,
cần phải giác ngộ chân lí cách
mạng hơn, hiểu đời hơn nữa và
nâng cao năng lực hoạt động hơn.
Vì vậy anh động viên Tuyết Minh
thôi việc nữ hộ sinh ở cơ sở
dịch vụ y tế và tham gia học tập
ở một lớp huấn luyện vận động
phụ nữ. Lúc ấy Ban phụ vận của
Trung ương Quốc dân đảng Trung Quốc
do Hà Hương Nghi chủ trì, đang dự
định mở một cơ sở huấn luyện
vận động phụ nữ tại Quảng
Châu nhằm bồi dưỡng cán bộ
phụ nữ trong nước. Hồ Chí Minh
thông qua sự quen biết trực tiếp với
các vị Chu Ân Lai, Đặng Dĩnh Siêu,
Lí Phú Xuân, Thái Sướng, xin
được hai suất cho Tăng Tuyết Minh và
Lương Huệ Quần cùng vào học
lớp huấn luyện vận động phụ
nữ. Kì ấy, lớp khai giảng ngày
16 tháng 9 năm 1926 và kết thúc vào
ngày 16 tháng 3 năm 1927, thời gian học
tập là nửa năm. Quảng Châu thời
ấy là trung tâm của cách mạng
Trung Quốc. Trong quá trình lớp huấn
luyện phụ vận tiến hành, người
ta chẳng những đã mời không ít
các đồng chí có trách nhiệm
của Đảng cộng sản Trung Quốc đến
giảng mà còn tổ chức cho học
viên tham gia các hoạt động xã
hội. Nhờ được học tập, quả
nhiên Tăng Tuyết Minh tiến bộ rất
nhanh, trong khoá học, được bạn
đồng học là Trịnh Phúc Như
giới thiệu, cô đã gia nhập Đoàn
Thanh niên xã hội chủ nghĩa.”
“
Do Hồ Chí Minh lại thúc
giục nên
hôn lễ của hai người đã được
cử hành vào tháng 10 năm 1926. Lúc
ấy Hồ Chí Minh 36 tuổi, còn Tăng
Tuyết Minh 21. Địa điểm tổ chức
hôn lễ là nhà hàng Thái Bình
trước Ty Tài chính ở trung tâm
thành phố. Đó cũng là địa
điểm mà một năm trước đấy
Chu Ân Lai và Đặng Dĩnh Siêu mời
khách đến dự lễ kết hôn của
mình. Tham dự hôn lễ có phu nhân
Bào La Đình, Thái Sướng, Đặng
Dĩnh Siêu và một bộ phận học
viên khoá huấn luyện phụ vận.
Phu nhân họ Bào tặng một lẵng
hoa tươi. Mấy ngày đầu sau lễ
cưới, Hồ Chí Minh và Tăng Tuyết
Minh tạm trú trong Tổng bộ Thanh niên
cách mạng đồng chí hội, vốn
là nơi nghỉ ngơi của Hồ Chí
Minh. Lúc ấy, Hồ Chí Minh đang chủ
trì khoá huấn luyện chính trị
đặc biệt thứ III của Việt Nam, do
học viên khá đông nên địa
điểm học tập đã chuyển từ
Tổng bộ Thanh niên cách mạng đồng
chí hội đến phố Nhân Hưng ở
đường Đông Cao. Mấy ngày sau
Hồ Chí Minh và Tăng Tuyết Minh dọn
đến trú ngụ ở quán của ông
Bào, lúc đầu dùng bếp tập
thể, sau tự nấu nướng. Hồ Chí
Minh bận rộn công tác, mọi việc
nhà đều do Tăng Tuyết Minh quán
xuyến. Cô chăm sóc chu đáo mọi
sự ăn uống, sinh hoạt thường ngày
của Hồ Chí Minh, giúp cho anh từ tuổi
21 đã xa nhà bôn tẩu, làm “
kẻ phiêu diêu ” góc bể chân
trời, thì nay sau 15 năm lại có được
cảm giác ấm áp “ ở nhà
mình ”. Hồ Chí Minh rất mãn
nguyện về cô vợ Trung Quốc của
mình. Sau ngày cưới, Hồ Chí
Minh từng nhiều lần đàm đạo
với Lâm Đức Thụ, Lương Huệ
Quần về vợ mình, đều nói
rõ điều đó.”
Uyên ương chia lìa đôi ngả
“
Thế nhưng phúc chẳng dài
lâu.
Ngày 12 tháng 4 năm 1927, mới nửa năm
sau khi Hồ Chí Minh với Tăng Tuyết Minh
kết hôn, Tưởng Giới Thạch phản
bội cách mạng, phát động cuộc
chính biến phản cách mạng tại
Thượng Hải, tình thế ở Quảng
Châu cũng chuyển biến theo. Trước
đó, chính phủ Quốc dân đã
rời tới Vũ Hán. Trụ sở của
đoàn cố vấn Lao Liên cũng rời
tới Vũ Hán. Và tất nhiên, Hồ
Chí Minh cũng phải chuyển đến Vũ
Hán. Trung tuần tháng 5, Hồ Chí Minh
lưu luyến chia tay với Tăng Tuyết Minh,
trước lúc lên đường dặn
đi dặn lại Tăng Tuyết Minh : “ Em
phải bảo trọng, đợi tin tức của
anh ; ổn định nơi chốn một chút
là anh đón em ngay ”. Thế
rồi,
Hồ Chí Minh rời Quảng Châu, chuyển
đến Vũ Hán, rồi lại chuyển
đến Thượng Hải, đi đường
Hải Sâm Uy, khoảng giữa tháng 6 năm
1927 đến Mạc Tư Khoa. Sau đó, Hồ
Chí Minh lại vội vàng đến Đức,
Pháp, Bỉ, Thuỵ Sĩ, Italia... tạm ngừng
công tác, cuối cùng, tháng 8 năm
1929, đến Thái Lan.”
Lev Trotsky và Nguyễn Ái
Quốc năm 1924 ở Moskva
“
Do Tưởng Giới Thạch phản
bội,
thành Quảng Châu rơi vào giữa
một cuộc khủng bố trắng. Sau khi chia
tay với Hồ Chí Minh, Tăng Tuyết Minh
một mình về sống với mẹ và
những người thân. Trong hai năm, từ
tháng 7 năm 1927 đến tháng 6 năm
1929, Tăng Tuyết Minh vào trường Anh văn
Kiêm Bá và trường Trung học nữ
sinh Tân Á học tập. Thời gian đầu,
cô còn giữ được liên hệ
với một số đồng chí cách
mạng quen biết ở cơ sở huấn luyện
phụ vận. Về sau do Quốc dân đảng
ngày càng đàn áp tàn bạo
các đảng viên cộng sản, các
đồng chí mà Tăng Tuyết Minh quen
biết đều rời Quảng Châu, mối
liên hệ về tổ chức của cô
với đoàn viên Đoàn Thanh niên
xã hội chủ nghĩa Trung Quốc cũng
bị gián đoạn. Tháng 7 năm 1929,
Tăng Tuyết Minh rời Quảng Châu, về
quê nhà của mẹ ở Thuận Đức,
làm nữ hộ sinh tại một trạm y tế
tư ở thị trấn Lặc Lưu. Đầu
năm 1930, cô lại chuyển đến làm
nữ hộ sinh ở y xá Quần An của Dư
Gia Viên, thị trấn Lạc Tòng, huyện
Thuận Đức.”
“
Thời gian này, Hồ Chí
Minh có hai
lần nhờ người mang thư và gửi
thư liên hệ với Tăng Tuyết Minh,
nhưng đều không kết quả. [...] Sau
khi đến Thái Lan, Người lấy tên
là Đào Cửu, tiến hành công
tác tuyên truyền và tổ chức
cách mạng trên đất Thái Lan.
[...] đã hơn một năm Hồ
Chí
Minh li biệt với Tăng Tuyết Minh, nhớ
nhung da diết. Nơi đây cách Trung Quốc
tương đối gần, nhờ người
chuyển thư cũng tiện, bèn cầm bút
viết thư cho Tăng Tuyết Minh. Hồ Chí
Minh cũng nghĩ đến thời cuộc biến
loạn, tình huống thiên biến vạn
hoá, thư có đến được
tay vợ hay không, thật khó dự đoán.
Vì vậy, anh quyết định dùng lời
lẽ ngắn gọn, hàm súc viết một
bức thư ngắn, bảo cho biết mình
vẫn bình an và thăm hỏi người
thân. Nội dung bức thư đó như
sau : “ Từ ngày chia tay với em, đã
hơn một năm trôi qua. Nhớ thương
khắc khoải, chẳng nói cũng hiểu.
Nay mượn cánh hồng, gửi mấy dòng
thư để em yên tâm, đó là
điều anh mong mỏi, và cầu cho nhạc
mẫu vạn phúc. Anh trai vụng về, Thuỵ
”.
Thư gửi Tăng Tuyết Minh
bị Mật thám
Đông Dương chặn được ngày
14.8.1928, hiện tàng trữ tại C.A.O.M. (Aix
en Provence). Xuất xứ : Daniel Hémery, HO CHI
MINH De L’Indochine au Vietnam, Gallimard, Paris 1990,
tr.145.
PHIÊN ÂM : Dữ
muội tương biệt, chuyển
thuấn niên dư, hoài
niệm tình thâm, bất
ngôn tự hiểu. Tư
nhân hồng tiện, Dao ký
thốn tiên, Tỷ
muội an tâm, Thị
ngã ngưỡng/sở vọng. Tinh
thỉnh Nhạc
mẫu vạn phúc. Chuyết huynh Thuỵ.
DỊCH : Cùng
em xa cách Đã
hơn một năm Thương
nhớ tình thâm Không
nói cũng rõ. Cánh
hồng thuận gió Vắn
tắt vài dòng Để
em an lòng Ấy
anh ngưỡng vọng. Và
xin kính chúc Nhạc
mẫu vạn phúc. Anh
ngu vụng : Thuỵ (Bản
dịch của N.H. Thành)
“
[...] Không rõ người
mang thư sơ
suất, hay là anh ta vốn dĩ không thể
tin cậy, mà bức thư đó đã
nhanh chóng lọt vào tay cơ quan mật
thám Pháp ở Đông Dương, cuối
cùng thành vật lưu trữ tại Cục
hồ sơ can án quốc gia của nước
Pháp. Năm 1990, trong dịp kỉ niệm 100
năm sinh của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, Nhà xuất bản Gallimard ở Pháp
đã cho ra mắt bạn đọc cuốn
sách Hồ Chí Minh -
từ Đông Dương
đến Việt Nam, giữa
tranh ảnh minh hoạ
trong sách có bản in chụp bức thư
bằng Trung văn nói trên của Hồ
Chí Minh gửi cho vợ, với những dòng
thuyết minh : “ Thư của Nguyễn Ái
Quốc (tức Hồ Chí Minh) viết cho vợ.
Chuyển tới cơ quan đặc vụ Đông
Dương ngày 14 tháng 8 năm 1928 ”.
[...] Một tác giả tên
là Bùi
Đình Kế trên báo Nhân Dân
của Việt Nam, số ra ngày 19 tháng 5
năm 1991 đã dẫn lại bức thư
đó trong bài nhan đề Về một
tài liệu liên quan sinh hoạt cá nhân
của Nguyễn Ái Quốc. Bài
báo đã
phân tích và phỏng đoán bức
thư đó liệu có phải của Hồ
Chí Minh hay không. Tuy nhiên, đã
không đưa ra được kết luận
rõ ràng. Thực ra, bức thư đó
chính xác là do Hồ Chí Minh viết.
Một là, đối chiếu với những
thư cảo Trung văn của Hồ Chí Minh
thì bức thư đó hoàn toàn
ăn khớp với bút tích của người.
Hai là, lúc Hồ Chí Minh viết bức
thư đó cách thời điểm chia
tay với Tăng Tuyết Minh đúng là
hơn một năm như nói ở trong thư.
Ba là, tên kí dưới thư Thuỵ
đúng là bí danh Hồ Chí Minh
dùng trong thời gian ở Quảng Châu. Bốn
là, Tăng Tuyết Minh từ nhỏ mất
cha, chỉ có mẹ lúc ấy còn
sống, và Hồ Chí Minh nắm rõ
điều đó, nên trong thư chỉ
vấn an nhạc mẫu. Căn cứ những điều
trên, bức thư đó do Hồ Chí
Minh viết, không còn nghi ngờ gì nữa.
Thư viết xong đã rơi vào tay mật
thám Pháp, đó là điều Hồ
Chí Minh đã không thể lường
trước được.
“
Lúc ấy, Hồ Chí Minh công
tác ở
Thái Lan đến tận tháng 11 năm
1929. Sau đó, Người được Quốc
tế Cộng sản cử đến Hương
Cảng, triệu tập hội nghị thống
nhất ba tổ chức cộng sản thành
một đảng cộng sản. “ Hội
nghị thống nhất ” đã
khai mạc
tại Hương Cảng ngày 3 tháng 2 năm
1930, chính thức tuyên bố thành lập
Đảng Cộng sản Việt Nam. Sau hội
nghị, tháng 3 năm đó Hồ Chí
Minh trở lại Thái Lan, tháng 4 lại
đến Hương Cảng. Sau, nhiều lần
lại từ Hương Cảng đến Thượng
Hải, tiến hành công tác tuyên
truyền và tổ chức cách mạng
trong Việt kiều tại tô giới Pháp
ở Thượng Hải. Lúc ấy, các
đảng viên cộng sản Việt Nam Hồ
Tùng Mậu, Nguyễn Lương Bằng...
cũng đang hoạt động trong Việt kiều
ở Thượng Hải. Đầu tháng 5
năm 1930, Hồ Chí Minh lại viết một
bức thư nữa từ Thượng Hải gửi
Tăng Tuyết Minh. Bức thư này gửi
qua Quảng Châu cho Tăng Tuyết Minh lúc
ấy đang làm nữ hộ sinh ở cơ
sở dịch vụ y tế tại Gia Dư Viên,
thị trấn Lặc Lưu, huyện Thuận Đức.
Nội dung yêu cầu Tăng Tuyết Minh mau mau
đến Thượng Hải đoàn tụ.
Trong thư có hẹn kì hạn và nói
rõ nếu quá hạn đó mà
Tăng Tuyết Minh không đến sẽ đành
một mình xuất ngoại. Thế nhưng,
với cả bức thư này nữa, cũng
đã xảy ra chuyện ngoài ý muốn,
Tăng Tuyết Minh cũng không sao nhận được.
Tài liệu hồi ức do Tăng Tuyết
Minh viết cũng như lời kể lại của
bà qua thư từ trao đổi với tác
giả bài này đều nói tới
hoàn cảnh của sự cố này.
“
Hoá ra, tháng 7 năm 1929
Tăng Tuyết
Minh sau khi đã rời Quảng Châu, làm
nữ hộ sinh ở trạm y tế của bác
sĩ Dư Bác Văn mới mở ra ở thị
trấn Lặc Lưu, huyện Thuận Đức,
đến cuối năm. Đầu năm sau, cô
lại chuyển đến làm nữ hộ
sinh tại y xá Quần An của Sa Khiếu ở
thị trấn Lạc Tòng cũng huyện
Thuận Đức. Bức thư của Hồ Chí
Minh chuyển đến cho trạm y tế của
Dư Bác Văn ở thị trấn Lặc
Lưu thì lúc ấy Tăng Tuyết Minh đã
rời đi rồi. Trưởng trạm y tế
Dư Bác Văn chẳng những không kịp
thời chuyển thư đến Tăng Tuyết
Minh mà ngược lại còn tự ý
mở thư trước mặt vợ mình,
lại còn gọi thêm cả nữ y sĩ
Hoàng Nhã Hồng, xem trộm nội dung
thư, sau đó đem đốt đi. Nửa
năm sau khi xảy ra chuyện đó, Tăng
Tuyết Minh trở lại Quảng Châu thăm
mẹ và nhận lời mời đến dự
lễ khai trương cơ sở y tế tại
nhà một bạn đồng học cũ. Tại
đây cô bất ngờ gặp lại nữ
y sĩ Hoàng Nhã Hồng, người đã
từng làm việc cùng tại thị trấn
Lặc Lưu, huyện Thuận Đức. Nữ
y sĩ đó đã đem toàn bộ sự việc tuôn ra hết ngọn ngành.
Lúc ấy so với thời hạn Hồ Chí
Minh hẹn gặp nhau ở Thượng Hải thì
đã qua nửa năm. Tăng Tuyết Minh chỉ
còn biết kêu khổ khôn nguôi,
nuốt nước mắt vào lòng. Như
vậy con người kia đã gieo tại hoạ
khiến Tăng Tuyết Minh mất đi cơ hội
được trở lại bên chồng, cũng
gây cho cô một bi kịch suốt đời
trong tương lai.”
Luật sư Loseby, người bảo vệ N.A.Q. ở Hồng Kông
“
Đến cuối năm 1931, rốt
cuộc Tăng
Tuyết Minh cũng có được một
cơ hội gặp Hồ Chí Minh nhưng lại
là tại toà án của nhà đương
cục Anh ở Hương Cảng xét xử
Hồ Chí Minh. Tăng Tuyết Minh chỉ có
thể nhìn thấy Hồ Chí Minh từ
rất xa, còn Hồ Chí Minh thì hoàn
toàn không biết vợ mình có mặt
tại toà. Cuối những năm 20 - đầu
30 hoàn cảnh của các nhà cách
mạng Việt Nam hoạt động tại Hương
Cảng rất tồi tệ. Trong hàng ngũ
cách mạng có kẻ phản bội, các
cơ sở bí mật bị phá hoại,
chính quyền thực dân Pháp và
nhà đương cục Anh ở Hương
Cảng cấu kết với nhau bắt bớ các
chiến sĩ cách mạng. Hồ Tùng Mậu
bị các nhà đương cục Anh bắt
rồi giao cho mật thám Pháp “ dẫn
độ ” về Việt Nam giam cầm. Hồ
Chí Minh cũng bị các nhà đương
cục Anh bắt ngày 5-6-1931, lí do là
làm tay sai cho hội Lao Liên, âm mưu
tiến hành hoạt động phá hoại
tại Hương Cảng. Sau khi Hồ Chí
Minh bị bắt, Quốc tế Cộng sản
thông qua hội Chữ thập đỏ quốc
tế kêu gọi cứu giúp. Tổ chức
đó lại mời một luật sư tiến
bộ người Anh ở Hương Cảng là
ông Loseby bào chữa cho Hồ Chí Minh.
Sau vài tháng bị giam giữ, Hồ Chí
Minh bị đưa ra xét xử. Lần này
đến Hương Cảng, Người lấy
bí danh là Tống Văn Sơ.
Nhưng sau khi bị bắt nhà đương cục Anh đã phát hiện đó chính là Lý Thuỵ, cũng tức là Nguyễn Ái Quốc. Lúc ấy rất nhiều báo Hương Cảng đưa tin. Cùng thời gian này, thân mẫu Tăng Tuyết Minh đang bị bệnh. Cô cùng mẹ đến Hương Cảng trú tại cơ sở chữa bệnh của anh cả là Tăng Cẩm Nguyên. Đọc được tin toà sẽ xét xử chồng mình là Lý Thuỵ liền nhờ bạn bè cũ cùng đến toà. Người đến dự thính xét xử rất đông. Tăng Tuyết Minh phải ngồi nghe cách xa phòng xử án. Nhìn thấy hình dáng tiều tuỵ của người chồng xa cách đã năm năm mà lòng khôn ngăn trăm mối ngổn ngang. Nhưng do khoảng cách khá xa, lại giữa toà án vợ chồng chẳng những vô phương trò chuyện mà Hồ Chí Minh thậm chí chắc chắn không hề biết Tăng Tuyết Minh đang ở trước mắt mình. Tăng Tuyết Minh muốn đến thăm nom nhưng có lời truyền ra rằng đây là một trọng phạm chính trị không được phép thăm hỏi, gặp gỡ. Tăng Tuyết Minh hỏi dò nhiều nơi và biết được rằng hội Hồng thập tự quốc tế và luật sư Loseby đang tìm cách cứu Hồ Chí Minh, tình cảnh có lẽ cũng sẽ chuyển biến, đành cùng thân mẫu trở về Quảng Châu, lòng hoang mang không biết làm sao.
Nhưng sau khi bị bắt nhà đương cục Anh đã phát hiện đó chính là Lý Thuỵ, cũng tức là Nguyễn Ái Quốc. Lúc ấy rất nhiều báo Hương Cảng đưa tin. Cùng thời gian này, thân mẫu Tăng Tuyết Minh đang bị bệnh. Cô cùng mẹ đến Hương Cảng trú tại cơ sở chữa bệnh của anh cả là Tăng Cẩm Nguyên. Đọc được tin toà sẽ xét xử chồng mình là Lý Thuỵ liền nhờ bạn bè cũ cùng đến toà. Người đến dự thính xét xử rất đông. Tăng Tuyết Minh phải ngồi nghe cách xa phòng xử án. Nhìn thấy hình dáng tiều tuỵ của người chồng xa cách đã năm năm mà lòng khôn ngăn trăm mối ngổn ngang. Nhưng do khoảng cách khá xa, lại giữa toà án vợ chồng chẳng những vô phương trò chuyện mà Hồ Chí Minh thậm chí chắc chắn không hề biết Tăng Tuyết Minh đang ở trước mắt mình. Tăng Tuyết Minh muốn đến thăm nom nhưng có lời truyền ra rằng đây là một trọng phạm chính trị không được phép thăm hỏi, gặp gỡ. Tăng Tuyết Minh hỏi dò nhiều nơi và biết được rằng hội Hồng thập tự quốc tế và luật sư Loseby đang tìm cách cứu Hồ Chí Minh, tình cảnh có lẽ cũng sẽ chuyển biến, đành cùng thân mẫu trở về Quảng Châu, lòng hoang mang không biết làm sao.
N.A.Q. khoảng năm 1934 khi ra tù, trở lại Moskva.
Bà Tăng Tuyết Minh (ảnh chụp năm 1965, ở tuổi 60)
“
Tháng 2 năm 1932, thân mẫu Lương
thị của Tăng Tuyết Minh bệnh nặng
qua đời, hưởng thọ 76 tuổi. Tăng
Tuyết Minh chuyển đến công tác ở
y xá Quần An ở huyện Đông Hoàn,
vốn là cơ cấu phân chi của y xá
Quần An huyện Thuận Đức, vẫn làm
nữ hộ sinh. Lúc này, cha mẹ cô
đều đã mất, anh em đông nhưng
người thì đi xa, người thì
chết sớm, Tăng Tuyết Minh côi cút
độc thân, thật là buồn khổ.
Năm 1943, sau tiết xuân, thầy giáo cũ
là Trương Tố Hoa mở tại đường
Long Tân ở Quảng Châu một phòng
chẩn trị, có lời mời Tăng Tuyết
Minh đến giúp sức. Cô bèn xin
thôi việc ở Đông Hoàn, đến
phòng chẩn trị của Trương Tố
Hoa làm nữ hộ sinh và làm việc
ở đó cho đến tận ngày
(Trung Quốc) giải phóng. Sau khi nước
Trung Quốc mới được thành lập,
chính phủ tiến hành cải tạo và
chỉnh đốn các cơ sở kinh tế
tư nhân, thành lập các trạm vệ
sinh bảo vệ sức khoẻ tại các
khu. Tăng Tuyết Minh hưởng ứng lời
kêu gọi của chính phủ, đã
đến công tác tại trạm số 8
ở khu vực phía Tây. Về sau trạm
này đổi gọi là Viện Vệ
sinh Kim Hoa (nay là Viện Y học Trung y khu Lệ
Loan). Tăng Tuyết Minh công tác ở đó,
hành nghề nữ hộ sinh đến tận
năm 1977 khi về hưu.”
Thế
là từ sau lần trông thoáng thấy
chồng ở Hương Cảng, không bao giờ
Tăng Tuyết Minh gặp lại Nguyễn Ái
Quốc nữa. Theo tác giả Hoàng Tranh,
tháng 5-1950, thấy hình Chủ tịch Hồ
Chí Minh đăng trên Nhân
dân Nhật
báo cùng với tóm tắt tiểu sử,
bà tin chắc Hồ Chí Minh chính là
chồng mình, nhất là sau khi tìm mua
được cuốn Truyện
Hồ Chí Minh
(nhà xuất bản Tân Hoa). Bà đã
“ báo cáo với tổ chức
”,
đồng thời gửi mấy bức thư cho
chủ tịch Hồ Chí Minh thông qua đại
sứ Việt Nam tại Bắc Kinh là Hoàng
Văn Hoan. Những bức thư ấy “ đều
như đá chìm biển khơi (...) thậm
chí chúng có được gửi ra
khỏi Quảng Châu hay không là điều
còn đáng hoài nghi ”. Tuy nhiên,
một cán bộ lãnh đạo Quảng
Châu đã tới gặp Tăng Tuyết
Minh, trao cho bà lá thư của bà Thái
Sướng (một trong những người đã
tới dự tiệc cưới năm 1926 cùng
với bà Đặng Dĩnh Siêu, vợ
của Chu Ân Lai) “ chứng
thực Hồ
Chí Minh chính là Lý Thuỵ cũng
tức là chồng Tăng Tuyết Minh ”.
Cán bộ này cũng “ giải
thích
(...) lí do tại sao
không tiện liên
lạc với Chủ tịch Hồ Chí Minh, hy
vọng Tăng Tuyết Minh hiểu và lượng
thứ việc này, yên tâm công tác
”. Vẫn theo sử gia Hoàng Tranh thì về
phần mình, Hồ Chí Minh đã “
từng thông qua Tổng lãnh sự Việt
Nam tại Quảng Châu dò tìm tăm
tích của Tăng Tuyết Minh, năm 1960 lại
nhờ Bí thư Trung Nam cục Đào Chú
dò tìm dấu vết của bà ”
song “ việc trên đương
nhiên
không thể có bất kì kết quả
gì ” vì “ điều
này vào
thời ấy hoàn toàn không kì lạ
”.
Bà
Tăng Tuyết Minh đã “ yên
tâm
công tác ” cho đến năm 1977 mới
về hưu, sau 52 năm tận tuỵ với nghề
nữ hộ sinh. Theo Hoàng Tranh, gia đình
bà theo đạo Công giáo từ đời
ông nội, và bà “ thường
xuyên đi lễ ở giáo đường
”. Bà “ có thói quen ăn
uống
đạm bạc, không dùng cá thịt
”, cuộc sống “ vô cùng
giản
dị ”, “ luôn
vui vẻ giúp người
”...
“
11 giờ 15 phút ngày 14
tháng 11 năm
1991, sau 86 năm trải qua con đường đầy
lận đận long đong, tại nơi cư
ngụ [687 đường Long Tân Đông,
Quảng Châu], cụ bà Tăng
Tuyết
Minh đã bình yên nhắm mắt, thanh
thản trút hơi thở cuối cùng ”.
Hoàng Tranh
Toàn văn bài này, Hồ Chí Minh với người vợ Trung
Quốc Tăng Tuyết Minh, đã đăng trên số tháng
11-2001 của tạp chí Đông Nam Á
tung hoành (Dọc
ngang Đông Nam Á), xuất bản tại Nam Ninh. Tác giả Hoàng Tranh (Huang Zheng)
là nhà sử học, viện phó Viện Khoa học Xã hội Quảng Tây, tác giả cuốn Hồ Chí Minh
với Trung Quốc (Nhà xuất bản Tân Tinh, Nam Ninh, 1990).
Bản dịch của Minh Thắng. Theo thông tin từ Hà Nội, một tạp chí sử học
có ý đăng bài này, những đã bị chặn lại.
NGUỒN : Diễn Đàn số 121 (tháng 9.2001), tr. 17-20.
No comments:
Post a Comment