HỒ CHÍ MINH HUYỀN THOẠI VÀ MẶT NẠ

HỒ CHÍ MINH HUYỀN THOẠI VÀ MẶT NẠ

http://giahoithutrang.blogspot.com/2012/06/ho-chi-minh.html

Friday, 18 April 2014

SINH NGỮ PHÁP ANH VIỆT



NGUYỄN THIÊN THỤ 

 SINH NGỮ  PHÁP ANH VIỆT


GIA HỘI © 2014


LỜI NÓI ĐẦU

Tác giả soạn quyển sách này để dạy con cháu trong nhà. Nay  xuất bản để các bậc phụ huynh có thể tham khảo trong việc dạy sinh ngữ cho các cháu nhỏ.
Mong rằng quyển sách này giúp ich cho tuổi trẻ Việt Nam.

Ottawa ngày 18-4-2014
Nguyễn Thiên Thụ



SINH NGỮ  PHÁP ANH VIỆT


LESSON I

A.
La fourmi et la Dove. Real Audio

UNE FOURMI allé à la banque d'une rivière pour étancher sa soif, et emporté par le flot de la rivière, était sur le point de se noyer. Une colombe assis sur un arbre surplombant l'eau arracha une feuille et la laissa tomber dans le courant près d'elle. La Fourmi a grimpé sur elle et a flotté dans la sécurité à la banque. Peu de temps après, un oiseleur vint et se tint sous l'arbre, et posa ses gluaux pour la colombe, qui était assis dans les branches. La fourmi, voyant son dessin, l'a piqué dans le pied. Dans la douleur l'oiseleur jeta les rameaux, et le bruit fait l'aile de colombe de prise.


B.  The Ant and the DoveReal Audio        


AN ANT went to the bank of a river to quench its thirst, and being carried away by the rush of the stream, was on the point of drowning. A Dove sitting on a tree overhanging the water plucked a leaf and let it fall into the stream close to her. The Ant climbed onto it and floated in safety to the bank. Shortly afterwards a birdcatcher came and stood under the tree, and laid his lime-twigs for the Dove, which sat in the branches. The Ant, perceiving his design, stung him in the foot. In pain the birdcatcher threw down the twigs, and the noise made the Dove take wing.


B. La fourmi et la Dove. Real Audio

UNE FOURMI allé à la banque d'une rivière pour étancher sa soif, et emporté par le flot de la rivière, était sur le point de se noyer. Une colombe assis sur un arbre surplombant l'eau arracha une feuille et la laissa tomber dans le courant près d'elle. La Fourmi a grimpé sur elle et a flotté dans la sécurité à la banque. Peu de temps après, un oiseleur vint et se tint sous l'arbre, et posa ses gluaux pour la colombe, qui était assis dans les branches. La fourmi, voyant son dessin, l'a piqué dans le pied. Dans la douleur l'oiseleur jeta les rameaux, et le bruit fait l'aile de colombe de prise.


C. Kiến và chim bồ câu

Một con kiến bò ra bờ sông để uống nước cho đỡ khát thì bị dòng nước chảy xiết cuốn trôi và sắp chết đuối. Một con chim bồ câu đậu trên một cành cây la đà trên mặt nước trông thấy, bèn mổ lấy một chiếc lá rồi thả xuống dòng nước, gần chỗ kiến. Con kiến leo lên chiếc lá và dạt vào bờ an toàn. Không lâu sau đó, một người bẫy chim đến dưới gốc cây, đặt những cành cây bôi nhựa định bẫy con chim bồ câu đang đậu trên cành. Kiến nhận ra ý đồ ấy, bèn đốt vào chân ông ta. Bị kiến đốt đau, người thợ săn đánh rơi những cành cây, và tiếng động khiến chim bồ câu bay mất.




LESSON II

A. D'un Loup et d'un Agneau.


Un Loup buvant à la source d'une fontaine, aperçut un Agneau qui buvait au bas du ruisseau ; il l'aborda tout en colère, et lui fit des reproches de ce qu'il avait troublé son eau. L'Agneau, pour s'excuser, lui représenta qu'il buvait au-dessous de lui, et que l'eau ne pouvait remonter vers sa source. Le Loup redoublant sa rage, dit à l'Agneau qu'il y avait plus de six mois qu'il tenait de lui de mauvais discours. " Je n'étais pas encore né, répliqua l'Agneau. Il faut donc, repartit le Loup, que ce soit ton père ou ta mère. " Et sans apporter d'autres raisons, il se jeta sur l'Agneau et le dévora, pour le punir (disait-il) de la mauvaise volonté et de la haine de ses parents.


B.The Wolf and the Lamb

Once upon a time a Wolf was lapping at a spring on a hillside, when, looking up, what should he see but a Lamb just beginning to drink a little lower down. " There's my supper, " thought he, " if only I can find some excuse to seize it. " Then he called out to the Lamb, " How dare you muddle the water from which I am drinking ? "
" Nay, master, nay, " said Lambikin ; " if the water be muddy up there, I cannot be the cause of it, for it runs down from you to me. "
" Well, then, " said the Wolf, " why did you call me bad names this time last year ? "
" That cannot be, " said the Lamb ; " I am only six months old. "
" I don't care, " snarled the Wolf ; " if it was not you it was your father ; " and with that he rushed upon the poor little Lamb and .WARRA WARRA WARRA WARRA WARRA .ate her all up. But before she died she gasped out . " Any excuse will serve a tyrant. "


C. CON SÓI VÀ CON CỪU
Một hôm con Sói uống nước ở một con suối. Chợt thấy một con Cừu đang uống nước ở cuối giòng, nó bèn nổi giận, đến gần trách mắng con Cừu:
“Tại sao mày làm bẩn nước uống của tao?”
Con Cừu đáp:
“Thưa ông, tôi không làm bẩn nước của ông vì tôi uống nước cuối giòng.”
Con Sói nổi giận mắng:
“Sao năm ngoái mày dám chửi tao?
Con Cừu đáp:
“Thưa ông, tôi mới sinh ra sáu tháng mà thôi!”
Con Sói nổi giận:
“Nếu không phải mày thì là cha mày hoặc mẹ mày!”
Nói xong Sói chụp Cừu rồi ăn thịt để trừng phạt tội của cha mẹ nó.


LESSON III

A. UN CORBEAU ET UN RENARD

Un Corbeau s'était perché sur un arbre, pour manger un fromage qu'il tenait en son bec. Un Renard qui l'aperçut, fut tenté de lui enlever cette proie. Pour y réussir et pour amuser le Corbeau, il commença à le louer de la beauté de son plumage. Le Renard voyant que le Corbeau prenait goût à ses louanges : " C'est grand dommage, poursuivit-il, que votre chant ne réponde pas à tant de rares qualités que vous avez. " Le Corbeau voulant persuader au Renard que son chant n'était pas désagréable, se mit à chanter, et laissa tomber le fromage qu'il avait au bec. C'est ce que le Renard attendait. Il s'en saisit incontinent, et le mangea aux yeux du Corbeau, qui demeura tout honteux de sa sottise, et de s'être laissé séduire par les fausses louanges du Renard.

B. The Fox and the Crow .

A Crow having stolen a bit of meat, perched in a tree and held it in her beak. A Fox, seeing this, longed to possess the meat himself, and by a wily stratagem succeeded. "How handsome is the Crow," he exclaimed, in the beauty of her shape and in the fairness of her complexion! Oh, if her voice were only equal to her beauty, she would deservedly be considered the Queen of Birds!" This he said deceitfully; but the Crow, anxious to refute the reflection cast upon her voice, set up a loud caw and dropped the flesh. The Fox quickly picked it up, and thus addressed the Crow: "My good Crow, your voice is right enough, but your wit is wanting."


C. CON QUẠ VÀ CON CÁO

Cáo đánh hơi được mùi pho-mát béo ngậy liền đi tới. Từ dưới gốc cây, Cáo chào vọng lên:
- Em chào bác Quạ... ạ...!
Quạ nghe tiếng Cáo chào, nhưng không đáp lại. Tại sao? Há miệng ra đáp lại lời chào, để mà rơi mất miếng pho-mát à? Chẳng chơi!
- Chào bác Quạ... ạ...! Phải công nhận hôm nay bác bảnh bao thật! Bộ áo đen thật vừa vặn! Người đẹp, áo đẹp! Này, nói để bác biết nhé, cả khu rừng này, chỉ có bác đã đẹp người lại còn có giọng hát hay! Tài và sắc vẹn toàn, bác đúng là phượng hoàng của xứ sở! Nói thật đấy, em xưa nay không nịnh ai bao giờ đâu!
Quạ nghe mấy lời tán tụng, liền há miệng định khoe giọng hát. Nhưng vừa há miệng ra thì miếng pho-mát rơi ngay xuống đất.
Cáo chộp luôn lấy miếng pho-mát và trước khi bỏ đi, nó không quên dạy cho Quạ một bài học chua cay:
- Bác Quạ ơi! Bác nhớ nhé: kẻ nịnh hót sống nhờ vào kẻ ưa nịnh. Em thu học phí cho bài học này là miếng pho-mát, bác thấy có đáng không?
Quạ vừa xấu hổ vừa tiếc của, thề từ nay sẽ không để ai lừa nữa. Chẳng biết rồi sau này Quạ có để mình bị lừa nữa hay không, chứ hôm nay thề bồi như vậy thì đã muộn rồi.


LESSON IV

A.
Le chat et la souris
Une certaine maison a été envahi par les souris. Un chat, la découverte de ce,
fait son chemin en elle et a commencé à attraper et manger un par un. Craignant
pour leur vie, la souris se tenaient près de leurs trous. Le chat n'était plus
en mesure de les atteindre et s'aperçut qu'elle doit les inciter l'avant par
un certain dispositif. A cet effet, elle a sauté sur une cheville, et se
suspendant à elle, fait semblant d'être mort. Un des souris, lorgnant furtivement
dehors, elle a vu et a dit: «Ah, ma bonne madame, même si vous devez tourner
dans un sac de farine, nous ne viendra pas près de chez vous." Celui qui est
une fois trompé est doublement prudent

B. The Cat and the Mice 
 

A CERTAIN HOUSE was overrun with Mice. A Cat, discovering this,
made her way into it and began to catch and eat them one by one. Fearing for
their lives, the Mice kept themselves close in their holes. The Cat was no
longer able to get at them and perceived that she must tempt them forth by
some device. For this purpose she jumped upon a peg, and suspending herself
from it, pretended to be dead.
One of the Mice, peeping stealthily out, saw her and said, "Ah, my good madam,
even though you should turn into a meal-bag, we will not come near you."
He who is once deceived is doubly cautious.


C. CON MÈO VÀ CON CHUỘT

Một ngôi nhà có rất nhiều chuột. Con mèo cũng biết ngôi nhà lắm chuột. Nó tính sẽ ăn thịt từng con chuột một. các con chuột lấy làm sợ hãi, bèn ẩn nấp gần hang, không ra ngoài. Con Mèo không còn bắt được chuột nữa, nó bèn nghĩ kế. Nó nhảy lên cọc, và treo nó trên cọc giả đò chết. Một con chuột thò đầu ra hỏi; 'Bà mèo thân mến, dù bà chui đầu vào một túi thực phẩm, tôi cũng không dám đến gần bà". Ở đời, ai mà đã bị lừa một lần sẽ cẩn thận gấp đôi.



LESSON V


A. De l'Âne couvert de la peau d'un Lion.

Un Âne ayant trouvé par hasard la peau d'un Lion, s'en couvrit le dos sur-le-champ, et se para de cette dépouille. Les autres bêtes qui le virent en cet équipage, et qui le prirent d'abord pour un véritable Lion, en furent alarmées, et se mirent à fuir de toute leur force. Le Maître à qui appartenait l'Âne, le cherchait de tous côtés, et fut tout étonné quand il le vit déguisé de cette sorte. L'Âne accourut vers son Maître, et se mit à braire. Sa voix et ses longues oreilles qu'il n'avait point cachées, le firent connaître malgré son déguisement. Son Maître le prit, et le condamna à son travail ordinaire.

B. The Ass in the Lion's Skin

An Ass once found a Lion's skin which the hunters had left out in the sun to dry. He put it on and went towards his native village. All fled at his approach, both men and animals, and he was a proud Ass that day. In his delight he lifted up his voice and brayed, but then every one knew him, and his owner came up and gave him a sound cudgelling for the fright he had caused. And shortly afterwards a Fox came up to him and said: "Ah, I knew you by your voice." Fine clothes may disguise, but silly words will disclose a fool.


C. Lừa đội lốt sư tử


Lừa khoác bộ da sư tử vào và tất cả mọi người, mọi con vật khác đều tưởng đấy là con sư tử thật. Người và gia súc bỏ chạy. Một cơn gió thổi tới. Bộ da bị tung ra, thế là thấy rõ lừa. Người ta chạy đến nện cho lừa một trận nhừ tử.


LESSON VI


A. Du Lion et du Rat.


Un Lion fatigué de la chaleur, et abattu de lassitude, dormait à l'ombre d'un arbre. Une troupe de Rats passa par le lieu où le Lion reposait ; ils lui montèrent sur le corps pour se divertir. Le Lion se réveilla, étendit la patte, et se saisit d'un Rat, qui se voyant pris sans espérance d'échapper, se mit à demander pardon au Lion de son incivilité et de son audace, lui représentant qu'il n'était pas digne de sa colère. Le Lion touché de cette humble remontrance, lâcha son prisonnier, croyant que c'eût été une action indigne de son courage de tuer un animal si méprisable et si peu en état de se défendre. Il arriva que le Lion courant par la forêt, tomba dans les filets des chasseurs ; il se mit à rugir de toute sa force, mais il lui fut impossible de se débarrasser. Le Rat reconnut aux rugissements du Lion qu'il était pris. Il accourut pour le secourir, en reconnaissance de ce qu'il lui avait sauvé la vie. En effet, il se mit à ronger les filets, et donna moyen au Lion de se développer et de se sauver.

B.The Lion and the Mouse


A LION who had caught a Mouse was about to kill him, when the Mouse said: "If you will spare my life, I will do as much for you some day." The Lion, good-naturedly let him go. It happened shortly afterwards that the Lion was caught by some hunters and bound with cords. The Mouse, passing that way, and seeing that his benefactor was helpless, gnawed off his tail.

C. Sư tử và chuột

Sư tử ngủ. Chuột chạy qua trên ngời sư tử. Sư tử choàng tỉnh
và tóm được chuột. Chuột lên tiếng van xin sư tử tha nó ra. Chuột
nói:
- Nếu ông thả cháu ra, cháu sẽ làm điều tốt cho ông.
Sư tử bật cười vì chuột nhắt hứa sẽ làm điều tốt cho nó, nhưng
cũng thả chuột ra. Về sau những ngời thợ săn tóm được sư tử và lấy
dây trói sư tử vào thân cây. Chuột nhắt nghe thấy tiếng sư tử gầm,
chạy đến cắn đứt dây thừng và bảo:
- Ông có nhớ là khi ấy ông cười, ông không nghĩ là chuột nhắt
cháu lại có thể làm cho ông điều tốt, còn bây giờ thì ông thấy đấy,
cũng làm đuợc điều tốt chứ.



LESSON VII.


A .Du Chien et de son Image.



Un Chien traversant une rivière sur une planche, tenait dans sa gueule un morceau de chair, que la lumière du Soleil fit paraître plus gros dans l'eau, comme c'est l'ordinaire. Son avidité le poussa à vouloir prendre ce qu'il voyait, et il lâcha ce qu'il portait, pour courir après cette ombre. C'est ainsi que sa gourmandise fut trompée, et il apprit à ses dépens qu'il vaut mieux conserver ce que l'on possède, que de courir après ce qu'on n'a pas.


B. The Dog and the Shadow.


A Dog, crossing a bridge over a stream with a piece of flesh in his mouth, saw his own shadow in the water and took it for that of another Dog, with a piece of meat double his own in size. He immediately let go of his own, and fiercely attacked the other Dog to get his larger piece from him. He thus lost both: that which he grasped at in the water, because it was a shadow; and his own, because the stream swept it away.


C. Con chó và cái bóng của nó


Một con chó, mõm ngoạm thịt đi trên tấm ván bắc qua suối. Nó
thấy bóng nó d ưới nước lại nghĩ là dưới ấy có một con chó khác cũng
đang ngoạm thịt, nó nhả miếng thịt và lao xuống cướp miếng thịt của
con chó kia.; miếng thịt kia chẳng thấy đâu còn thịt của nó thì bị
sóng nước cuốn mất.
Thế là chó ta trơ mõm ra chẳng được gì.



LESSON VIII.

A. De la Grenouille et du Boeuf



La Grenouille ayant un jour aperçu un Boeuf qui paissait dans une prairie, se flatta de pouvoir devenir aussi grosse que cet animal. Elle fit donc de grands efforts pour enfler les rides de son corps, et demanda à ses compagnes si sa taille commençait à approcher de celle du Boeuf. Elles lui répondirent que non. Elle fit donc de nouveaux efforts pour s'enfler toujours de plus en plus, et demanda encore une autre fois aux Grenouilles si elle égalait à peu près la grosseur du Boeuf. Elles lui firent la même réponse que la première fois. La Grenouille ne changea pas pour cela de dessein ; mais la violence qu'elle se fit pour s'enfler fut si grande, qu'elle en creva sur-le-champ.

La Fourmi faisait sécher son froment qui avait contracté quelque humidité pendant l'hiver. La Cigale mourant de faim, lui demanda quelques grains pour subvenir à sa nécessité dans la disette où elle se trouvait. La Fourmi lui répondit durement qu'elle devait songer à amasser pendant l'été pour avoir de quoi vivre pendant l'hiver. " Je ne suis point oisive durant l'été, répliqua la Cigale, je passe tout ce temps-là à chanter. - Oh bien, repartit la Fourmi, puisque cela est ainsi, je vous conseille de danser maintenant ; vous méritez bien de mourir de faim. "



B. The Frog and the Ox


Many years ago there was a magnificent ox. One day, when he was taking an afternoon walk, a poorly dressed and unimportant looking frog saw him. The frog felt envy toward the beautiful, strong ox. But the frog yelled to his friends, "Look at this ox! But he is no better than I am, if I tried." The frog swelled up to twice his normal size. "Am I the size of this big ox now?" he asked his frog friends. "You will have to be much bigger to be his size," they said. The frog swelled up even bigger. "How about now?" he asked his friends. "No, but you better not swell up more or you will kill yourself," they warned.

But the frog wanted to be as big as the ox and puffed, and puffed. He never got as big as the ox because he burst first.
Moral of Aesops Fable: Self-conceit may lead to self-destruction


C. CON ẾCH MUỐN TO BẰNG CON BÒ


Con ảnh ương kia thấy một con bò, xem coi tốt hình lớn vóc. Còn nó thì toàn thân không lớn được bằng một cái trứng, banh gỗ, chằn mình ra, thở phình lên, chuyển thần lực làm cho to lớn bằng con bò, rồi hỏi con ảnh ương kia rằng: “Chị coi cho rõ, vừa chưa? Nói cho tôi biết một chút; chớ tôi chẳng có bằng chút nào sao? — Không. — Vậy thì coi tôi đây nầy? — chẳng bằng chút nào hết. — Coi lại coi thử? — Bậu không được tùng tiệm chút nào hết.” Con thú yếu đuối ấy rán quá sức nứt bụng mà chết.


LESSON IX.


A. De la Tortue et de l'Aigle.


La Tortue mal satisfaite de sa condition, et ennuyée de ramper toujours à terre, souhaita devenir Oiseau, et pria très instamment l'Aigle de lui apprendre à voler. L'Aigle s'en défendit d'abord, lui représentant qu'elle demandait une chose contraire à son tempérament ; cependant se laissant vaincre par les prières de la Tortue, il la prit entre ses serres et l'enleva ; et l'ayant lâchée au milieu des airs, elle tomba sur une pointe de rocher, se brisa le corps, et mourut de cette chute.


B. The Tortoise and the Eagle


A TORTOISE, lazily basking in the sun, complained to the sea-birds of her hard fate, that no one would teach her to fly. An Eagle, hovering near, heard her lamentation and demanded what reward she would give him if he would take her aloft and float her in the air. "I will give you," she said, "all the riches of the Red Sea." "I will teach you to fly then," said the Eagle; and taking her up in his talons he carried her almost to the clouds suddenly he let her go, and she fell on a lofty mountain, dashing her shell to pieces. The Tortoise exclaimed in the moment of death: "I have deserved my present fate; for what had I to do with wings and clouds, who can with difficulty move about on the earth?' If men had all they wished, they would be often ruined.


C. Rùa Và Đại Bàng

Một con Rùa nằm uể oải phơi mình trong nắng ấm phàn nàn với những con chim biển về số phận hẩm hiu của mình, rằng sẽ không ai dạy cho nó bay được. Một con Đại Bàng lượn lờ gần đó đã nghe thấy những lời than vãn ấy và hỏi Rùa sẽ cho nó cái gì nếu nó mang cô ta lên cao cho cô Rùa lơ lửng giữa không trung.

Cô ta nói, “Tôi sẽ cho anh tất cả của cải của biển Đỏ”

“Vậy thì tôi sẽ dạy cho cô cách bay”, con Đại Bàng đáp.

Nó quắp con Rùa lên bằng những chiếc vuốt của mình và mang cô ta lên đến tận mây xanh. Đột nhiên Đại Bàng buông cô ta ra, và con Rùa rơi xuống một vùng núi cao ngất ngưỡng, cái mai rùa của nó vỡ tan thành trăm mảnh. Con Rùa kêu lên trước khi chết : “Ta chết thật xứng đáng với số mệnh, vì những gì ta đã làm cùng với những đôi cánh, những đám mây, có ai trong khó khăn gian nan lại có thể đi vòng quanh thế giới?
Nếu muốn đạt được như ý mình, người ta thường phải trả giá – mất m


LESSON X

A. D'un Coq et d'une Pierre précieuse.





Un Coq en grattant un fumier, y trouva par hasard une Pierre précieuse ; il la considéra pendant quelque temps, et dit avec une espèce de mépris : " De quoi me peut servir une chose si belle et si brillante ? Elle serait bien mieux entre les mains d'un Lapidaire qui en connaîtrait le prix, et l'usage qu'il en faut faire. Mais pour moi qui n'en puis retirer aucune utilité, je préférerais un seul grain d'orge à toutes les Pierres précieuses du monde."


B. The Cock and the Pearl

A cock was once strutting up and down the farmyard among the hens when suddenly he espied something shinning amid the straw. "Ho! ho!" quoth he, "that's for me," and soon rooted it out from beneath the straw. What did it turn out to be but a Pearl that by some chance had been lost in the yard? "You may be a treasure," quoth Master Cock, "to men that prize you, but for me I would rather have a single barley-corn than a peck of pearls." Precious things are for those that can prize them.

C. CON GÀ TRỐNG VỚI HẠT CHÂU

Bữa kia con gà trống mổ được một hạt ngọc trân châu, nó đưa cho người thợ trau giồi buôn bán ngọc mà rằng: “Tôi lấy hột ngọc nầy làm trong sạch, mà một hột lúa cho tôi thì là hay hơn.”

Người kia dốt nát có một bổn sách, nó đem cho người bán sách ở gần nó mà rằng: “Tôi tưởng bổn sách nầy hay; mà đồng tiền đồng bạc cho tôi thì là hay hơn.”



LESSON XI


A. Du Loup et de la Grue



Un Loup s’étant enfoncé par hasard un os dans la gorge, promit une récompense à la Grue, si elle voulait avec son bec retirer cet os, dont il se sentait incommodé. Après qu’elle lui eut rendu ce bon office, elle lui demanda le salaire dont ils étaient convenus. Mais le Loup avec un rire moqueur et grinçant les dents : » Contentez−vous, lui dit−il, d’avoir retiré votre tête saine et sauve de la gueule du Loup, et de n’avoir pas éprouvé à vos dépens combien ses dents sont aiguës. »



B. The Wolf and the Crane


A WOLF who had a bone stuck in his throat hired a Crane, for a large sum, to put her head into his mouth and draw out the bone. When the Crane had extracted the bone and demanded the promised payment, the Wolf, grinning and grinding his teeth, exclaimed: "Why, you have surely already had a sufficient recompense, in having been permitted to draw out your head in safety from the mouth and jaws of a wolf." In serving the wicked, expect no reward, and be thankful if you escape injury for your pains.



C. SÓI VÀ CÒ


Chó sói thường tham ăn. Vậy họ nói con chó sói kia có đồ ăn bỉ bàng, thì lật đật táp nuốt đến nỗi nó tưởng đà vong mạng rồi. Một cái xương cản ngang nơi họng nó. Chó sói nầy la không được, may phước, có một con cò đi ngang qua gần đó. Nó ra dấu kêu, cò chạy lại. Đó cò liền chữa cứu nó. Cò rút cái xương ra; rồi hỏi tiền công vì làm mau lại êm. Chó sói mới nói: “tiền công bậu! khéo dỡn! Kỳ thiệt, phải chơi gì! Để cho bậu rút cổ ra khỏi họng qua, mà lấy ơn ấy làm chưa trọng. É! bậu là đồ bạc ngãi: đi, đừng léo hánh đây mà mang khốn giờ!”



LESSON XII


A.LE CHIEN ET LE CROCODILE



Ceux qui donnent de mauvais conseils aux gens sages perdent leur temps, et font rire d'eux.
On dit que les chiens ne boivent l'eau du Nil qu'en courant, de peur d'être saisis par les Crocodiles. Un Chien donc courait, et commençait à boire, lorsqu'un Crocodile lui dit : « Bois à loisir, et ne crains rien. — Certes je le ferais, repartit le Chien, si je ne te savais très friand de ma chair. »


B. THE DOG AND THE CROCODILE


Those who give bad advice to discreet persons, both lose their times, and are laughed to scorn.
It has been related, that Dogs drink at the river Nile running along, that they may not be seized by the Crocodiles. Accordingly, a Dog having begun to drink while running along, a Crocodile thus addressed him: “Lap as leisurely as you like; drink on; come nearer, and don’t be afraid,” said he. The other replied: “Egad, I would do so with all my heart, did I not know that you are eager for my flesh.”


C. CON CHÓ VÀ CON CÁ SẤU


Ai mà khuyên dại cho những người khôn thì chỉ mất thời giờ và bị khinh bỉ. Một con chó nọ uống nước tại sông Nil, nó vừa chạy vừa uống vì sợ cá sấu bắt được. nó vừa chạy dọc theo bờ sông và uống nước. con Sấu bèn bảo nó rằng;" cứ thong thả mà uống, cứ lại gần ta, gần ta, đừng có sợ." con Chó đáp:" Tao thật lòng muốn làm như vậy, nếu tao không biết rằng mày háo hức muốn ăn thịt tao."



LESSON XIII


A. LE RENARD ET LA CIGOGNE


Il ne faut nuire à personne. Mais si on vous offense, rendez la pareille, comme le montre cette fable.
Le Renard dit-on, invita le premier la Cigogne à souper, et lui servit sur une assiette au breuvage qu'elle ne put goûter, 6 malgré tout son appétit. La Cigogne, à son tour, invita le Renard, et lui offrit une bouteille pleine de viande hachée. Elle se rassasie à loisir, en y introduisant son long bec, et torture son convive affamé. Comme il léchait en vain le col de la bouteille, l'oiseau voyageur, paraît-il, lui tint ce langage : « Il faut souffrir, sans se plaindre, ce dont on a donné l'exemple. »


B. THE FOX AND THE STORK


At one time the Fox and the Stork were on visiting terms and seemed very good friends. So the Fox invited the Stork to dinner, and for a joke put nothing before her but some soup in a very shallow dish. This the Fox could easily lap up, but the Stork
could only wet the end of her long bill in it, and left the meal as hungry as when she began. "I am sorry," said the Fox, "the soup is not to your liking."

"Pray do not apologise," said the Stork. "I hope you will return this visit, and come and dine with me soon." So a day was appointed when the Fox should visit the Stork; but when they were seated at table all that was for their dinner was contained in a very long-necked jar with a narrow mouth, in which the Fox could not insert his snout, so all he could manage to do was to lick the outside of the jar.
"I will not apologise for the dinner," said the Stork:
Moral of Aesops Fable: "One bad turn deserves another."


C.Cáo và Cò


Cáo là loại rất háu ăn nhưng rất khôn lanh quỉ quyệt. Một hôm, Cáo bỗng mời Cò đến nhà dùng cơm. Thức ăn Cáo dọn ra mời khách là món cháo, được để trong một cái đĩa dẹp, không có chiều sâu. Sau khi mời khách, Cáo thản nhiên liếm hết sạch, trong khi Cò, vì có mỏ dài, chẳng ăn được gì trong đĩa, đành chịu đói.
Vài ngày sau, đến phiên Cò mời Cáo đến dùng cơm Vốn háu ăn, Cáo nhận lời và đến ngay. Thức ăn thật là ê hề, nào là thịt, cá, bắp, gạo, trái cây, nhưng Cò đã để trong một chiếc hũ thuỷ tinh cao cổ. Cáo loay hoay mãi không cách chi lấy đồ ăn được, chỉ còn cách đi nhặt mấy miếng vụn thức ăn mà Cò đã rơi vãi trong khi ăn.



LESSON XIV

A. LA SOURIS DE VILLE ET LA SOURIS DES CHAMPS


Une souris de ville a été invité par son cousin qui vivait à la campagne pour passer quelques jours en sa compagnie. Ils ont eu un dîner très modeste, avec des tiges de blé, des racines, des glands, et d'eau fraîche. Après le repas, la souris de ville a commencé à décrire le battement et la vie de charme de la ville, avec tout le luxe et les plaisirs que l'on puisse désirer. Donc, le lendemain, quand la souris de ville a demandé au Pays de la souris pour rentrer à la maison avec elle à la ville, elle a accepté.

Quand ils arrivèrent à la maison de la souris de ville, ils ont trouvé la nourriture la plus tentant Pays souris n'aurait pu imaginer. Mais, à peine avaient-ils commencé à manger, d'un chat féroce les attaqua. Ils ont réussi à cacher, mais peu de temps après, un homme avec un chien est arrivé et ils ont dû se cacher à nouveau. La peur Country Mouse a décidé de rentrer chez eux immédiatement.
"Vous pouvez avoir le luxe que je n'ai pas," dit-elle s'éloigna, "mais je préfère ma nourriture simple et la vie simple mais paisible."



B. The Town Mouse and the Country Mouse


A Town Mouse was invited by his cousin who lived in the countryside to spend a few days in her company. They had a very modest dinner, with wheat stalks, roots, acorns, and fresh water. After the meal, the Town Mouse began to describe the throbbing and charming life of the town, with all the luxuries and delights that anyone could desire. So, the next day when the Town Mouse asked the Country Mouse to go home with her to the city, she accepted.

When they reached the Town Mouse’s home, they found the most tempting food the Country Mouse could have imagined. But, no sooner had they started to eat, than a fierce Cat attacked them. They managed to hide, but soon after, a Man with a Dog came in and they had to hide again. The scared Country Mouse decided to return home immediately.

“You may have luxuries that I have not,” she said as she hurried away,” but I prefer my plain food and simple but peaceful life.”
Poverty with security is better than luxury in the midst of danger.


C. Chuột đồng và chuột nhà


Thuở xưa kia con chuột ở thành thị mời con chuột ở ruộng rẫy một cách có khuôn có phép, đến ăn của dư, chim chóc đồ ngon vật lạ. Dọn để trên một tấm khảm trọng giá. Nghĩ lấy đó thì rõ cuộc ăn chơi hai người bạn hữu nầy. Tiệc bày trọng thể lắm, nơi cỗ ấy chẳng thiếu món chi: mà có người làm động mất vui trong lúc hai con chuột đang nhập tiệc. Nghe có tiếng ngoài cửa buồng: chuột ở thành vụt chạy; chuột bạn tuốt theo. Vắng tiếng người, họ đi rồi: chuột liền trở lại; khi ấy kẻ ở thành mới nói: “Còn một món thịt nướng ăn cho rồi.” Chuột quê mùa đáp rằng: “Thôi, vừa rồi, mai nầy mời anh đến nhà tôi. Ấy không phải là tôi chê bai cỗ tiệc của anh như thể của vua. Song le trên tôi thì thong thả chẳng có ai đến cản trở trong khi ăn uống. Vậy cho kiếu về.

Chẳng màng chi cuộc vui nầy: phải lo phải sợ thế nầy thế kia.



LESSON XV


A. De la Fourmi et de la Cigale.


La Fourmi faisait sécher son froment qui avait contracté quelque humidité pendant l'hiver. La Cigale mourant de faim, lui demanda quelques grains pour subvenir à sa nécessité dans la disette où elle se trouvait. La Fourmi lui répondit durement qu'elle devait songer à amasser pendant l'été pour avoir de quoi vivre pendant l'hiver. " Je ne suis point oisive durant l'été, répliqua la Cigale, je passe tout ce temps-là à chanter. - Oh bien, repartit la Fourmi, puisque cela est ainsi, je vous conseille de danser maintenant ; vous méritez bien de mourir de faim. "


B. The Ant and the Grasshopper



One summer's day, a merry Grasshopper was dancing, singing and playing his violin with all his heart. He saw an Ant passing by, bearing along with great toil a wheatear to store for the winter.
“Come and sing with me instead of working so hard”, said the Grasshopper “Let’s have fun together.”
“I must store food for the winter”, said the Ant, “and I advise you to do the same.”

“Don’t worry about winter, it’s still very far away”, said the Grasshopper, laughing at him. But the Ant wouldn’t listen and continued his toil.
When the winter came, the starving Grasshopper went to the Ant’s house and humbly begged for something to eat.
“If you had listened to my advice in the summer you would not now be in need,” said the Ant. “I’m afraid you will have to go supperless to bed,” and he closed the door.


C. CON VE VÀ CON KIẾN


Con ve, ngâm nga cả và mùa hạ, đến mùa đông, lấy làm thốn thiếu: không có lấy một miếng ruồi, trùn chi hết. Nó đi than đói nơi ổ kiến ở gần, xin kiến cho mượn một ít bột đặng đỡ ngặt cho tới mùa mới. Nó nói với kiến rằng: “Tôi sẽ trả bổn lợi cho chị trước lúc mùa màng gặt hái, thiệt tình chẳng dám sai ngoa.” Con kiến tánh không hay cho mượn chác, ấy nó có chút tật đó. Nên nó mới hỏi con ve: “Bậu làm chi hồi mùa nắng? - Khi ấy đêm ngày tối ngâm nga cho kẻ qua người lại người ta nghe, chớ chi chẳng trái ý chị. - Khi ấy bậu ngâm nga! Qua lấy làm khoái chí lắm: vậy chừ múa đi coi thử nào.”


LESSON XVI

A. De la Fourmi et de la Colombe.


Une Fourmi pressée de la soif descendit dans une fontaine, où elle pensa être étouffée, étant entraînée par le courant, sans pouvoir s'en retirer. Une Colombe qui la vit dans l'embarras où elle était, arracha une branche d'arbre qu'elle jeta dans la fontaine. La Fourmi, à l'aide de cette branche, se garantit du malheur dont elle était menacée. Peu de temps après, un Oiseleur tendit des filets pour surprendre la Colombe, qui n'y prenait pas garde. La Fourmi qui connut la mauvaise intention de l'Oiseleur, le mordit à la jambe. La douleur qu'il sentit l'obligea à se retourner et à lâcher son filet. La Colombe qui entendit du bruit, se sauva par ce bon office de la Fourmi


B. The Ant and the Dove The Ant and the Dove https://blogger.googleusercontent.com/img/proxy/AVvXsEjiFdNAVEdH06UZoB9MM8qPOXxgpvWzz8t-OB0ZS520JagLBq6VxXuSv353cZOA6Pn0e7dEN9Bv6VHhDRLz-uuW0DzOR-2dW4vJZ-Dp5aeFBssRrUNNkWZvKuUhw0F-faGg5gpHly0zFVgDCas=


An Ant went to the river to quench his thirst, but the rush of the water carried him away and the Ant was now struggling to save his life. A Dove sitting on a tree overhanging the water, seeing him, immediately took a bough, and let it fall close to the Ant, so that he could climb on it. The Ant was thus saved from drowning.

A few days later, a hunter came and pointed the gun at the Dove who was sitting in the same tree. The Ant happened to be nearby and, perceiving the hunter’s intentions, stung him in the foot. The pain made the hunter miss his aim, while the shot startled the Dove and made her fly away.

One good turn deserves another.


C. CON BỒ CÂU VÀ CON KIẾN


Con bò câu uống nước nơi cái mé suối kia, tại đó có một con kiến rủi thì đã té xuống rồi: nó rán rúc thôi đà hết sức, cũng không vô được tới bờ. Con bò câu ngó thấy, động lòng thương, bỏ xuống nước một sợi cỏ, con kiến leo theo đó dễ vô tới bờ và thoát khỏi chết. Lúc ấy có người thợ săn kia đi chân không và cầm một cây ná, vừa đi ngang qua gần đó thấy con bò câu, lòng đà hớn hở tính chắc vào nồi. Khi anh ta đang nhắm bắn con bò câu, con kiến vụt chích nơi gót chân, khiến anh thợ săn vùng day đầu lại, con bò câu lúc ấy cất lên bay riết đi, chẳng lâu nó ra khỏi vùng nguy hiểm. . Ơn ra chẳng mất.


LESSON XVII

A. Des Rats tenant conseil.



Les Rats tenaient conseil, et ils délibéraient sur ce qu'ils avaient à faire pour se garantir de la griffe du Chat, qui avait déjà croqué plus des deux tiers de leur peuple. Comme chacun opinait à son tour, un des plus habiles se leva. Je serais d'avis, dit-il d'un ton grave, qu'on attachât quelque grelot au cou de cette méchante bête. Elle ne pourra venir à nous sans que le grelot nous avertisse d'assez loin de son approche ; et comme en ce cas nous aurons tout le temps de fuir, vous concevez bien qu'il nous sera fort aisé de nous mettre, par ce moyen, à couvert de toute surprise de sa part. " Et toute l'assemblée applaudit aussitôt à la bonté de l'expédient. La difficulté fut de trouver un Rat qui voulût se hasarder à attacher le grelot : chacun s'en défendit ; l'un avait la patte blessée, l'autre la vue courte. " Je ne suis pas assez fort, " disait l'un. " Je ne sais pas bien comment m'y prendre ", disait l'autre. Tous alléguèrent diverses excuses, et si bonnes, qu'on se sépara sans rien conclure.


B. Belling the Cat


Long ago, the mice had a general council to consider what measures they could take to outwit their common enemy, the Cat. Some said this, and some said that; but at last a young mouse got up and said he had a proposal to make, which he thought would meet the case. "You will all agree," said he, "that our chief danger consists in the sly and treacherous manner in which the enemy approaches us. Now, if we could receive some signal of her approach, we could easily escape from her. I venture, therefore, to propose that a small bell be procured, and attached by a ribbon round the neck of the Cat. By this means we should always know when she was about, and could easily retire while she was in the neighbourhood." This proposal met with general applause, until an old mouse got up and said: "That is all very well, but who is to bell the Cat?" The mice looked at one another and nobody spoke. Then the old mouse said: "It is easy to propose impossible remedies."



C.
Mèo đeo nhạc


Vì mèo mà cuộc sống họ nhà chuột trở nên chật vật. Ngày nào
mèo cũng chén thịt khi thì hai, khi thì ba mống chuột. Một bữa họ
nhà chuột tụ họp bàn tính xem làm cách nào thoát đ ược mèo.
Bàn đi tính lại, không làm sao nghĩ được mẹo gì. Bấy giờ một
con chuột con mới lên tiếng :
- Tôi xin nói cách chúng ta làm thế nào để thoát được mèo. Sở dĩ
chúng ta bị chết là bởi vì chúng ta không biết khi nào mèo đến tìm
chúng ta. Phải đeo nhạc lên cổ mèo cho phát lên thành tiếng. Khi ấy
thì bất cứ lúc nào mèo tới gần chúng ta, chúng ta đều sẽ nghe rõ, thế
là chúng ta chuồn kịp thời.
- Được như vậy tốt đấy - chuột già nói - nhưng phải có ai đeo được
nhạc lên cổ mèo. Cậu nghĩ ra hay đấy, nhưng nếu cậu mà đeo được
nhạc lên cổ mèo thì khi ấy chúng tôi sẽ xin cám ơn cậu.




LESSON XVIII


A. L'âne et la sauterelle



UNE ASS après avoir entendu quelques sauterelles gazouillis, a été très enchantés; et, désireux de posséder les mêmes charmes de la mélodie, demandaient quelle sorte de nourriture qu'ils ont vécu à leur donner ces belles voix. Ils ont répondu, "La rosée." L'âne résolu qu'il vivrait que sur la rosée, et en peu de temps morts de faim. Même un imbécile est sage, quand il est trop tard!


B. The Ass and the Grasshopper



AN ASS having heard some Grasshoppers chirping, was highly enchanted; and, desiring to possess the same charms of melody, demanded what sort of food they lived on to give them such beautiful voices. They replied, "The dew." The Ass resolved that he would live only upon dew, and in a short time died of hunger. Even a fool is wise-when it is too late!



C. CON LỪA VÀ CON CHÂU CHẤU

Có một con lừa nghe châu châu hát hay quá, nó khao khát có được giọng điệu quyến rủ như vậy. Lừa bèn hỏi châu chấu;" Anh ăn thực phẩm nào mà có gìọng hat tuyệt vời như vậy/? Châu chấu đáp:'Nhờ vào hạt sương.' Con lửa bèn sống bắng bằng hạt sương, it lâu sau thì chết vì đói. Người dại cũng thành khôn thì cũng đã muộn màng.




LESSON XIX


A. La poule aux œufs d'or


Un propriétaire de chalet et son épouse ont eu une poule qui a jeté un oeuf d'or tous les jours. Ils supposaient que la poule doit contenir un grand morceau d'or dans son intérieur, et afin d'obtenir l'or qu'ils l'ont tué. Cela fait, ils ont trouvé à leur grande surprise que la poule ne différait en rien le respect de leurs autres poules. La paire insensé, espérant ainsi devenir riche à la fois, se priver du gain dont ils étaient assurés de jour en jour.


B. The Hen and the Golden Eggs


A COTTAGER and his wife had a Hen that laid a golden egg every day. They supposed that the Hen must contain a great lump of gold in its inside, and in order to get the gold they killed it. Having done so, they found to their surprise that the Hen differed in no respect from their other hens. The foolish pair, thus hoping to become rich all at once, deprived themselves of the gain of which they were assured day by day.


C.Gà mái và những quả trứng vàng


T
ham thì thâm. Tôi muốn dẫn chứng lời này nọ là thuật chuyện con gà thường bữa đẻ ra một trứng vàng, chủ gà tưởng trong mình con gà có một kho vàng. Nó đem làm thịt đi, mổ ra thấy cũng giống như gà thường vậy. Ấy mình làm cho mình phải mất của quí trọn của mình.



LESSON XX


A. Le vent et le soleil

Le vent et le soleil se disputaient qui était le plus fort. Soudain, ils ont vu un voyageur venant sur ​​la route, et le Sun, a déclaré: ".. Que je vois un moyen de décider de notre différend Quelle que soit d'entre nous peut causer ce voyageur à prendre son manteau est considérée comme la plus forte de commencer." Ainsi, le Sun a pris sa retraite derrière un nuage, et le vent a commencé à souffler aussi fort qu'il le pouvait sur ​​le voyageur. Mais plus il soufflait le plus près ne le voyageur envelopper son manteau autour de lui, jusqu'à ce qu'enfin le vent a dû abandonner au désespoir. Puis le soleil est sorti et brillait dans toute sa gloire sur le voyageur, qui a rapidement trouvé trop chaud pour marcher avec son manteau sur. Gentillesse effectue plus de gravité.


B. The Wind and the Sun


The Wind and the Sun were disputing which was the stronger. Suddenly they saw a traveller coming down the road, and the Sun said: "I see a way to decide our dispute. Whichever of us can cause that traveller to take off his cloak shall be regarded as the stronger. You begin." So the Sun retired behind a cloud, and the Wind began to blow as hard as it could upon the traveller. But the harder he blew the more closely did the traveller wrap his cloak round him, till at last the Wind had to give up in despair. Then the Sun came out and shone in all his glory upon the traveller, who soon found it too hot to walk with his cloak on. Kindness effects more than severity.


C. GIÓ VÀ MẶT TRỜI


Một lần nọ, gió Bắc và mặt trời tranh cãi kịch liệt xem ai mạnh hơn ai. Cả hai đều kể lại những chiến tích nổi trội nhất của mình và một mực cho rằng mình mạnh hơn đối phương.

Aesop -

* Cơn gió và mặt trời

Vừa lúc đó có một người khách bộ hành đi tới, và cả hai đồng ý kiểm tra sức mạnh của đôi bên bằng cách thử xem ai sẽ cởi được cái áo choàng của người khách bộ hành nọ ra nhanh hơn.

Cơn gió Bắc khoác lác đã thử trước. Nó tạo ra một luồng gió xoáy dữ dội nhất từ trước đến giờ, và ngay từ lần cố gắng đầu tiên, gần như nó đã có thể xé rách cái áo choàng của người bộ hành. Nhưng người đàn ông kia chỉ cần giữ cái áo choàng của mình chặt hơn một chút, thế là cơn gió bấc già nua kia chỉ phung phí sức lực của nó một cách vô ích mà thôi.

Xấu hổ vì đã không làm được một việc quá đơn giản như vậy, nên sau cùng gió Bắc đành chấp nhận bỏ cuộc.

Sau đó đến lượt Mặt trời tốt bụng. Mặt trời xua tan những đám mây đang giăng kín bầu trời và rọi những tia nắng gay gắt nhất của mình xuống thẳng đỉnh đầu của người khách bộ hành nọ.

Cảm thấy oi bức vì nhiệt độ tăng lên đột ngột, người đàn ông nọ vội vàng vứt cái áo choàng của mình đi và đến ngay chỗ có bóng râm gần nhất để tránh nắng.

VŨ LỰC CÓ KHI THẤT BẠI


LESSON XXI

A. La Laitière et son seau 

Patty la trayeuse allait marché portant son lait dans un Seau sur sa tête. Comme elle est allée le long, elle a commencé à calculer ce elle ferait avec l'argent qu'elle recevrait pour le lait. «Je vais acheter certains oiseaux de Farmer Brown, "dit-elle," et ils pondront Chaque matin, je vais vendre à la femme du pasteur. avec l' l'argent que je reçois de la vente de ces oeufs je vais m'acheter un nouveau basin robe et un chapeau de puce; et quand je vais au marché, ne seront pas tous les jeunes hommes viennent et me parlent! Polly Shaw sera que jaloux; mais je ne m'inquiète pas. Je vais juste regarder et jeter mon la tête comme ça. Comme elle parlait, elle jeta sa tête en arrière, le seau tombé, et tout le lait a été renversé. Alors, elle a dû rentrer à la maison et dire à sa mère ce qui s'était passé. "Ah, mon enfant», dit la mère, "Ne comptez pas vos poulets avant qu'ils ne soient éclos."


B. The Milkmaid and Her Pail 

Patty the Milkmaid was going to market carrying her milk in a Pail on her head. As she went along she began calculating what she would do with the money she would get for the milk. "I'll buy some fowls from Farmer Brown," said she, "and they will lay eggs each morning, which I will sell to the parson's wife. With the money that I get from the sale of these eggs I'll buy myself a new dimity frock and a chip hat; and when I go to market, won't all the young men come up and speak to me! Polly Shaw will be that jealous; but I don't care. I shall just look at her and toss my head like this. As she spoke she tossed her head back, the Pail fell off it, and all the milk was spilt. So she had to go home and tell her mother what had occurred. "Ah, my child," said the mother, "Do not count your chickens before they are hatched."

C. CÔ GÁI BÁN SỮA 


Patty đội một thùng sữa đi vào chợ để bán sữa. Cô vừa đi vừa suy nghĩ
về những gì phải mua sắm với số tiền bán sữa. "Tôi sẽ mua một số gà từ nông dân Brown, rồi gà mỗi sáng sẽ đẻ trứng , tôi sẽ bán cho vợ của Mục sư. Với tiền mà tôi nhận được từ việc bán những
quả trứng, tôi sẽ mua cho mình một áo choàng và mũ mới. Khi tôi đi ra chợ
tất cả những người đàn ông trẻ đi lên và nói chuyện với tôi! Polly Shaw sẽ ghen tuông; nhưng tôi không quan tâm. Tôi sẽ chỉ nhìn cô và nghiêng đầu như thế này. Khi cô nói và cô lúc lắc đầu, cô ngã xuống, thùng sữa đổ
xuống đất . Cô trở về nhà , thuật lại với mẹ những gì đã xảy ra. "À, con tôi", người mẹ cho biết, "Đừng đếm gà trước khi chúng nở."



LESSON XXII


A. L’Aigle frappé d’une Flèche «


 
– Un aigle s’était perché au faîte d’un rocher à l’affût des lièvres. Un homme le frappa d’une flèche, et le trait s’enfonça dans sa chair, et la coche avec ses plumes se trouva devant ses yeux. A cette vue, il s’écria : « C’est pour moi un surcroît de chagrin de mourir par mes propres plumes. »


B. The Eagle and the Arrow

An Eagle was soaring through the air when suddenly it heard the whizz of an Arrow, and felt itself wounded to death. Slowly it fluttered down to the earth, with its life-blood pouring out of it. Looking down upon the Arrow with which it had been pierced, it found that the shaft of the Arrow had been feathered with one of its own plumes. "Alas!" it cried, as it died, "We often give our enemies the means for our own destruction."


Con chim kia, bị một mũi tên gần chết, mới than thân trách phận, lại càng đau đớn thêm thì nói rằng: “Phải đổ nạn ấy tại mình ta mà ra! Người bất nhơn, bây nhổ lông nhổ cánh ta làm tên bắn lại ta! Song le đừng cười chi cả, máy móc ác nghiệp: nhiều khi bây cũng mắc như ta vậy.”

Con cái Japhet nửa phần kia cấp khí giái cho nửa phần nọ luôn.




VẦN QUỐC NGỮ



NGUYỄN THIÊN THỤ



VẦN QUỐC NGỮ
 




GIA HỘI © 2014
 







 LỜI NÓI ĐẦU

Ngày nay tại hải ngoại, các bậc phu huynh và các cộng đồng đều ra sức dạy trẻ tiếng Việt. Tôi cũng đã dạy tiếng Việt cho người ngoại quốc và con cháu trong nhà. Tôi đã soạn  sách này  từ  1997, sửa chữa nhiều lần nay xuất bản. Sach  gồm 30 bài, mỗi giờ dạy một bài thì trong 30 giờ là trẻ có thể đọc thông thạo tiếng Việt. Tôi nghĩ rằng quyển sách này có thể giúp ich cho học sinh quốc nội và quốc ngoại.


 Ottawa ngày 18-4 -2014
Nguyễn Thiên  Thụ



BÀI SỐ 1

CÁC CHỮ CÁI
A  Ă Â B C D Đ E Ê G GH H I K L M N NG NH NGH

  O Ô Ơ PH QU R S T TH TR U Ư V X Y
 
a ă â b c d đ e ê g gh h i k l m n ng nh ngh
o ô ơ ph qu r s t th tr u ư v x y

NGUYÊN ÂM
A Ă Â E Ê I   
O Ô Ơ U Ư  Y

PHỤ ÂM
 B C D Đ G GH H  K L M N NG NH NGH  PH QU R S T TH TR  V X  



BÀI SỐ 2
CÁC DẤU

Sắc  '  Huyền  `  Hỏi  ?  Ngã   ~  và Nặng  .

 
       Á    À            Ã
          đa   đá   đà   đạ   đả   đã
Lá ,  nhỏ,  bé , to  ,  cờ


BÀI SỐ 3
cô ca sĩ ,       ho   to quá
đi ra, đi vô, nha sĩ,
ba bà già đi ch

BÀI SỐ 4
ba bá bà bạ bả bã
ma má mà mạ mả mã
cá r ô, lá sả, đá, chó,  c à phê

BÀI SỐ 5
ba ,  cha,   bố ,   mẹ  ,  

gò má,  đá , cá rô, cá trê

quả cà, quả lê, nhà


BÀI SỐ 6
AI   ÂY AO   OA   ON

lỗ tai , hoa mai,    c ây hoa
cái ao, cái áo,  con quạ, con chó


BÀI SỐ 7
                   AC   AM   AN   ACH   ANG
                   chú bác,   trái cam,     hoa lan
                cái bàn,  áo rách,     trang sách


BÀI SỐ  8
ANH   AP  AU AT AY
anh em, rau xanh,    Anh Pháp
cái bát,  c ô ca s ĩ hát hay,
 đi mau,   thợ may


BÀI SỐ  9
ĂC   ĂM  ĂN ĂNG ĂP
mặc áo,  nằm ngủ,  ăn cá
mặt trăng, màu trắng,   đắp chăn

BÀI SỐ  10
ĂT  ÂM   ÂN  ÂNG ÂP
con mắt,   cái mâm,    cái sân
nhà ba tầng,  nằm sấp

BÀI SỐ  11
ÂT   ÂU EM EN EO
chủ nhật, nhà lầu, cái cầu
em bé, xem ti vi, hoa sen,
cái kèn, con heo, nhà nghèo

BÀI SỐ  12
EP ÊM ÊU ÊN ÊCH
hoa lan đẹp, ban đ êm
kêu gào , đi lên, con êch

BÀI SỐ  13
ÊNH ÊP ÊT OAI OAC
bênh vực , em bé  bị  bệnh,
cái bếp,  gạo nếp, tết ta, tết tây,
 củ khoai,  khoác lác

BÀI SỐ  14
O ĂC   OC OI  OM ONG
huy hoắc,  đi học,  tập đọc,  cái roi,
con voi, lom khom,  con ong


BÀI SỐ  15
OP OT ÔC ÔM ÔN
con cọp, con bò  tót, rót nước
con ốc, con tôm, số bốn,  chạy trốn

BÀI SỐ  16

ÔNG ÔP ÔT ƠI ƠM
con sông, ông già, vỗ tay đôm đốp
số một ,  cột đèn
lời nói, ăn cơm

BÀI SỐ  17
ƠN  ƠP ƠT IM IN
cái nhà lớn, sơn nhà, lớp học
trái ớt, con chim, máy in
 
BÀI SỐ  18
ICH INH IP IT I ÊM
tờ lịch,  lợi ích, học sinh, 
mắt híp, trái mít, ăn thịt,ngủ  thiếp,
 tiêm thuốc, tiệm  bán  đồ chơi trẻ con.

BÀI SỐ  19
IÊN  IÊP IÊT  UC UM

tiền bạc, ông tiên, thiệp mời
ly biệt, viết thư, nước Úc,
múc cháo, tôm hùm

BÀI SỐ  20
UN   UNG  UP  UT  UY
em thích ăn bún bò giò heo,
bùn lầy, cái bụng, khẩu súng
kính lúp, ăn xúp, cậu út,
ông Bụt, cây bút, khuy áo

BÀI SỐ  21
UÂT UÂNG U ÔC UÔN UÔNG
bất khuất, bâng khuâng, uống thuốc
buồn rầu, nước chảy cuồn cuộn
cái chuông, chuồng cọp


BÀI SỐ  22
UÔI   UYA UYÊN UYÊT  UYU
con ruồi, cái đuôi, đêm khuya
con thuyền, trăng khuyết, tuyết trắng
khúc khuỷu

BÀI SỐ  23
ƯA ƯC ƯI ƯNG ƯT
quả dưa, trời mưa, cái ngực
em ngửi mùi hoa lan thơm phức,
con chim ưng,  bánh mứt

BÀI SỐ  24
ƯƠC ƯƠI  ƯƠNG  ƯƠT   YÊN
uống nước, tươi cười, nhà trường, 
nhà thương , mưa ướt sân, bình yên


BÀI SỐ  25
YÊU  ENG  EC  OONG  ÔÔNG
thương yêu,  đồng hồ reo leng keng,
heo kêu eng éc, chuông chùa boong boong,
                  
BÀI SỐ  26

TẬP ĐỌC
Năm ngoái, cả nhà em sang thăm nước Mỹ. Nước Mỹ rất lớn và đẹp. Khắp nơi có nhiều nhà lầu tối tân, đường sá
rộng rãi và nhiều công viên rất lớn như một khu rừng.



BÀI SỐ  27
TẬP ĐỌC
Em có năm cái quần, hai cái khoen tai. Hàng ng ày em làm toán. Bà nhuộm tóc màu b ạch kim. Con chuồn chuồn đánh con chuột chạy dài. Con ong màu xanh, con sông rộng.Ba em mua  cho em khẩu súng nhựa, em rất mừng. Bé bị cảm cúm phải uống thuốc. Em luôn tuân lời cô giáo.


BÀI SỐ  28
TẬP ĐỌC
Gió rung màn cửa kêu leng keng.Em ra biển,em thấy những đoàn tàu lướt sóng chạy qua các hoang đảo.Phi cơ bay liệng trên không trong ánh nắng hoàng hôn.


BÀI SỐ  29
TẬP ĐỌC
RỬA TAY

Lan lên mười. Lan thường rửa tay hằng ngày. Cô thích rửa tay. Cô rửa tay với xà phòng và nước ấm. Cô rửa tay độ 30 giây.Sau khi rửa tay xong, cô tắt vòi nước và lấy khăn khô lau tay. Mọi người phải rửa tay trước khi ăn. Mọi người phải rửa tay sau khi đi vệ sinh.
Rửa tay sạch sẽ thì tránh được nhiều bệnh tật.

CÂU HỎI
1. Lan mấy tuổi?
2. Lan thường thích làm gì?Bao lâu?
3. Ta phải rửa tay lúc nào?
4. Rửa tay để làm gì?

Điền các chữ sau vào các khoảng trống: xà phòng, vòi nước, khăn khô, ăn cơm .





BÀI SỐ  30
TẬP ĐỌC 

XUÂN ĐI HỌC

Năm nay Xuân lên bảy tuổi. Xuân không chơi đùa như mấy năm còn bé.Xuân đi học. Xuân học đọc,học viết,học tính,học vẽ và nhiều khoa học khác nữa
Xuân chăm chỉ học, học sao cho mau tấn tới cho cha mẹ và thầy giáo được vui lòng.
Trừ ngày thứ bảy và chủ nhật , mỗi tuần lễ Xuân đi học năm ngày. Mỗi ngày học hai buổi: buổi sáng và buổi chiều.Sáng học ba giờ,chiều học hai giờ rưỡi. Buổi nào cũng có nghỉ mười lăm phút vào khoảng giữa buổi,để học trò ra chơi .
Lớp học có hai mươi học sinh. Thầy giáo của Xuân rất vui vẻ. Xuân rất thích đi học.
I.CÂU HỎI:
1. Xuân bao nhiêu tuổi?
2. Tại sao Xuân phải chăm học?
3. Mỗi tuần lễ, Xuân học mấy ngày?
4. Xuân được nghỉ những ngày nào?
5. Lớp của Xuân có bao nhiêu học sinh?

II.ĐỊNH NGHĨA
Thầy giáo - Học sinh
III.TÌM TIẾNG PHẢN NGHĨA VỚI:
chơi đùa- chăm chỉ.

HẾT