HỒ CHÍ MINH HUYỀN THOẠI VÀ MẶT NẠ

HỒ CHÍ MINH HUYỀN THOẠI VÀ MẶT NẠ

http://giahoithutrang.blogspot.com/2012/06/ho-chi-minh.html

Tuesday, 18 June 2013

NGHỆ THUẬT KIẾN TRÚC PHẬT GIÁO TÂY BAN NHA,



CHƯƠNG XXXV

NGHỆ THUẬT KIẾN TRÚC PHẬT GIÁO TÂY BAN NHA

I. PHẬT GIÁO TẠI TÂY BAN NHA

 Tây Ban Nha (Spain )  diện tích 505,992 km2, dân số  hơn 40 triệu (2012). Đa số dân chúng theo Thiên chúa giáo La Mã. Theo kiểm tra dân số tháng 4-2012, 71% theo Thiên Chúa giáo La Mã, 2,7% theo tôn giáo khác, 24% không tôn giáo. Tin Lành có 1,200,000 người. Jehovah có 105,000. Hồi giáo 1,700,000. Theo Buddhism by country (Wikipedia), dân số Tây Ban Nha  trên 40 triệu người, Phật giáo chiếm khoảng 0,5%, nghĩa là có khoảng 200 ngàn đến 300 ngàn. Tại Tây Ban Nha có  Hiệp Hội  Cộng Đồng Phật giáo Tây Ban Nha ( the Federation of Buddhist Communities of Spain - FCBE), thành lập năm 1992, đăng bạ năm 1995 với tư cách tôn giáo tại bộ Tư Pháp. Hiệp hội cũng là thành viên của Liên hội Phật giáo Âu châu ( the European Buddhist Union ).

Địa chỉ của Hiệp  hội Phật giáo Tây Ban Nha:
Postal address and phone of the FCBE:
Federación de Comunidades Budistas de España
Avda. Menéndez Pelayo, nº 113 Esc. Dcha. 1º Izq.
28007 - Madrid
Telephone: +34 914 344 829

II. KIẾN TRÚC PHẬT GIÁO TÂY BAN NHA

1. THÁP  BENALMÁDENA:
 
Benalmádena Stupa là một cái tháp ở  Benalmádena, Málaga ở vùng Andalusian nam Tây Ban Nha, nhìn ra  Costa del Sol. Tháp này cao 33m là tháp lớn nhất ở Tây Ban Nha.  Tháp này đã được  khánh thành  vào ngày 5 tháng 10-2003. Đó là kế hoạch cuối của đại sư Phật giáo Tây Tạng là  Lopon Tsechu Rinpoche.
Tháp  này cũng được gọi là Tháp Hòa Bình (Peace Stupa)  nhưng không do người Nhật xây như các tháp hòa bình khác trên thế giới, mà là do các đạt ma Phật giáo Tây tạng xây.Tháp này để cầu nguyện cho hòa bình, thịnh vượng và hòa hợp và cũng để cầu nguyện.

Tháp này cũng có tên là tháp Giác ngộ ( Enlightenment Stupa ). Tháp cũng có mục đích tượng trung cho sự giác ngộ của đức Phật .Tháp có Thiền phòng chiếm 100m2 , có tượng Phật và các văn hóa phẩm của Phật giáo Tây Tạng. Trên tường có các bức họa về cuộc đời đức Phật.
Ngài Lopon Tsechu đã đến thăm Spain lần thứ nhất năm 1990, và thuyết pháp tại đây.Ngài  Rinpoche đã xây tháp  Karma Guen vào năm 1994, một dấu hiệu tượng trưng cho hòa bình, thịnh vượng và hòa hợp cho Tây Ban Nha. Ngài đã xây 16 tháp khác  ở Âu châu  trước năm 2006 là năm ngài viên tịch. Ngài đã làm thường trú ở Tây Ban Nha  từ 1995 và đi khắp nơi truyền bá Phật pháp.

Benalmádena Stupa, 2003
 
 
Benalmádena Stupa, 2013
 Stupa
Spain June 2003 - Benalmadena Stupa construction site (June 2003)

Tháp này được  H.H. Kunzig Shamar Rinpoche, là bậc đại sư thứ hai của hệ phái Karma Kagyu  của Phật giáo Tây Tạng làm lễ khánh thành. Hiện diện buổi lễ có  có ông  Lömpo Sangye Ngodup, một vị bộ trưởng  của hoàng gia Bhutan  vùng Hy Ma Lạp Sơn,Lat ma Ole Nydahl,  ông Enrique Bolin  thị trưởng  của Benalmádena . Sr Bolin đã cung cấp đất cho việc xây tháp.

2. THÁP DAG SHANG KAGYU

Tháp  Dag Shang Kagyu, là một chùa ở  Panillo, gần Graus Ribagorza  thuộc vùng Huesca Aragón, nước Tây Ban Nha. Chùa do H.E. Kalu Rinpoche xây năm 1984 và năm 1985 thành một trung tâm học tập và thực hành Phật giáo. Chùa cao 17-meter tượng trưng cho mở của cho truyền thụ Phật pháp (opening the doors to the teachings).
 Dag Shang Kagyu (http://www.dagshangkagyu.com/)

Stupas in Dag Shang Kagyu, a buddhist temple in Panillo, near Graus  Ribagorza region  Huesca  Aragón, Spain  Europe
Lying Buddha in Dag Shang Kagyu, a buddhist temple in Panillo, near Graus  Ribagorza region  Huesca  Aragón, Spain  Europe
Tượng Phật nằm tại chùaDag Shang Kagyu 

 


Phong cảnh tổng quát 

3. TRUNG TÂM KARMA GUEN  (Buddhist Retreat Center Karma Guen).

Trung tâm an dưỡng của Kim Cương Thừa  tên là Karma Guen ở vùng núi  Andalusia nhìn ra Địa trung hải . Trung tâm này ở làng Aldea Alta.Trước đây làng có khoảng 12 gia đình cư ngụ,  thập niên 1970 thì bỏ hoang, hai ông  Dorrit và  Pedro Gomez  mua làng này và lập nên  trung tâm an dưỡng Karma Guen.
Trung tâm này là một trong 600 trung tâm của phái Karma Kagyu. Những trung tâm này do Đức lat ma Lama Ole và Hannah Nydahl thực hiện mong ước của vị Karmapa đời 16, tức là đức Karmapa  Gyalwa (Rangjung Rigpe Dorje -August 14, 1924–November 5, 1981)  . Các trung tâm này được vị Karmapa đời 17 tên là Thaye Dorje bảo trợ.
Tháp này xây năm 1994  dưới sự hướng dẫn của Ngài Lopon Tsechu Rinpoche. Tháp nằm ở nam Tây Ban Nha. Đây là tháp thứ nhất của Ngài Tsechu Rinpoche, được coi như là " tháp mẹ" cho các tháp ở Tây phương. Tháp do kiến trúc sư Woitek Kossowski thiết kế,   cao 13m, rộng 49m2, bên trong chứa
 xá lợi Phật và  các sư đời sau.  Khi tháp xây tháp được kể là tháp thứ ba trong thế giới.
Mục đich trung tâm là có một địa điểm tốt cho việcthiền định, học hỏi và thực hành Phật pháp.

17th Karmapa Thaye Dorje
H.H. 17th Karmapa Trinley Thaye Dorje 

Đức Karmapa thứ 17 Thaye Dorje  đứng đầu phái Karma Kagyu của Kim Cương Thừa Tây Tạng. Ngài sinh năm 1983 ở Tây Tạng, đào thoát khỏi bọn Trung Quốc xâm lược sang Ấn Độ vào mùa Xuân năm 1994. Ngài dạy tại các trung tâm này.




Địa chỉ:
Karma Guen
Aldea Alta 1
29700 Velez-Malaga Spain
Postal Address:
If you would like to mail things to Karma Guen please be aware that we receive our mail via a P.O. Box.
The mailing address is:
ASOCIACIÓN  KARMA GUEN
Karma Guen
Aldea Alta
Apartado de Correos 179
29700 Velez-Malaga Spain
Tel: +34 (95) 2115197
KarmaGuen@diamondway-center.org

Photo: Today is a birthday of Karmapa Rangjung Rigpe Dorje (1981)
Amitabha day and a full moon. Great day for meditation.

Hoy es un día de nacimiento del Karmapa Rangjung Rigpe Dorje (1981)
 día del Amitabha y luna llena. Un gran día para la meditación.
Karmapa Rangjung Rigpe Dorje

Trung tâm Karma Guen 

 

 
 Trung tâm Karma Guen

NGHỆ THUẬT KIẾN TRÚC PHẬT GIÁO NGA

 
CHƯƠNG XXXIV

NGHỆ THUẬT KIẾN TRÚC PHẬT GIÁO NGA



I. LỊCH SỬ PHẬT GIÁO TẠI NGA

Nga hiện nay là một nước cộng hoà, diện tích 17,075,400km2, dân số 142 triệu người.Cơ Đốc giáo, Hồi giáo, Do Thái giáo và Phật giáo là các tôn giáo truyền thống của Nga, được cho là một phần của "di sản lịch sử" Nga trong một điều luật được thông qua năm 1997. Con số thống kê ở Nga không chính xác. Số người vô thần ở Nga là 16–48% dân số. Chính thống giáo Nga là tôn giáo thống trị ở Nga 95% dân số. Các tôn giáo khác thì nhỏ hơn như Công giáo La mã, và nhiều phái Tin Lành. Người Nga chấp nhận Cơ Đốc giáo Chính thống ở thế kỷ thứ 10. Báo cáo Tự do Tôn giáo Quốc tế năm 2007 do Bộ ngoại giao Mỹ xuất bản đã nói rằng có xấp xỉ 100 triệu công dân coi họ là tín đồ Giáo hội Chính thống Nga.


Theo một cuộc điều tra của Trung tâm Nghiên cứu Ý kiến Công chúng Nga, 63% người tham gia coi họ là tín đồ Chính thống Nga, 6% tự coi mình là tín đồ Hồi giáo và chưa tới 1% coi mình là tín đồ hoặc của Phật giáo, Công giáo La Mã, Tin lành hay Do Thái giáo. Ước tính Nga là nơi sinh sống của khoảng 15–20 triệu tín đồ Hồi giáo. Tuy nhiên học giả Hồi giáo và nhà hoạt động nhân quyền Roman Silantyev đã tuyên bố rằng chỉ có 7 tới 9 triệu người theo Hồi giáo ở Nga.. Phật giáo là truyền thống của ba vùng thuộc Liên bang Nga: Buryatia, Tuva, và Kalmykia.
Nga là một quốc gia rộng lớn và có những vùng khác nhau. Về Phật giáo thì Phật giáo Tây Tạng mạnh nhất. Phật gáo Tây Tạng qua Mông cổ rồi vào đất Nga.  Cũng có thuyết nói rằng khi quân Mông Cổ xâm lăng Tây Tạng  thế kỷ 13nên đã thâu thaíi Phật giáo Tây Tạng. Sau đó, Phật giáo các nước theo di dân mà nhập vào Nga như Triều Tiên, Trung Quớc Việt Nam, Nhật bản. Về phương diện Phật giáo, chúng ta có thể chia làm ba vùng chính: Đó là vùng Burvartia, Kalmikia và Turva.

 1. Phật giáo ở Burvatia (Buryatia)

Phật giáo đã đến xứ Mông cổ ( Xiongnu, Xianbei, và Khitans) vào thế kỷ thứ hai sau TL.Trong đó lãnh thổ Ivolginsk xứ Xiongnu ) đã có dấu tích Phật giáo trong các nấm mộ. Vào thế kỷ 17, Phật giáo Tây Tạng  phát triển tại Mông Cổ rồi truyền đến dân chúng Transbaikalia ( vùnh gần đông hồ Baikal) thuộc Buvat.  Khoảng cuối thế kỷ 17 đầu thế kỷ 18, Phật giáo trải rộng khắp vùng Transbaikal. Một nhóm khác đi từ  tu viện Labrang ở Amdo của Tây Tạng.  Ban đầu họ lập những chùa nhỏ gọi là Dugan .

File:Цогчен-дуган в Иволгинском дацане.jpg
 Dzogchen Dugan (temple) at the Ivolga Datsan, 2012

File:Иволгинский дацан - Зеленая Тара.jpg
 Green Tara Dugan at the Ivolga Datsan, 2012

Năm  1701 có 11 dugans ở  Transbaikalia. Năm 1722,   biên giới Mông Nga bị đóng cửa, và phía bắc Mông cổ thuộc Nga,  là đất Buryat, Nga cho xứ này có quyền về tôn giáo, cho nên xứ này lập các tu viện đại học Phật giáo gọi là Datsan ở Buryatia. Tu viện đại học thứ nhất lập ở Tsongol xây xong thập niên 1740.  Năm 1741 Nữ hoàng Elizabeth (Yelizaveta Petrovna) công nhận Lạtma giáo , và công nhận 11 datsan  cùng 150 lạt ma. Thế là Phật giáo Tây Tạng trở thành tôn giáo chính thức tại Nga.  (Tháng 7 năm 1991, Phật giáo Buryatia làm lễ 250 năm được công nhận chính thức).  Khoảng 1846,  có 343 datsan lập ở Buryatia.

Các đại học ở đây đã thâu thái các văn chương, tập quán của phái Lat ma áo vàng ( Gelugpa lineage), và các tông phái khác của Phật giáo. Năm 1869, Lat ma Mông Cổ là Choi-Manrambađã dạy về y học tại Tu viện đại học Tsugol Datsan. Và từ đấy , y học phát triển. Năm 1878, trường Duynhor Kalachakra đưọc lập ở Aga datsan thì nâng cao giá trị  tinh thần của tu viện đại học. Năm 1887, sách in ra, có 29 nhà in hoạt động,cho đến năm 1930 bị hủy hoại thì các nhà in đã in 2000 nhan sách viết bằng chữ Tây Tạng và Mông Cổ. Đến cuối thế kỳ 19, Phật giáo đã phát triển đến vùng Cisbaikalia (nay là Bắc Buryatia).

 The Devajin Dugan at the Tamcha Datsan. 
 File:Dugan Devajin.JPG
Triển lãm tại Bảo Tàng Nhân Dân  Transbaikalia. 
Điệu múa Chàm huyền bí
 
Tại Ivolga Datsan
Hambo Lama (ngồi giữa) của Tu viện đại học Tamcha, 1886


Năm 1918, Cộng sản ra lệnh tách rời nhà chùa với Chính quyền,  và bãi bỏ giáo dục tôn giáo. Đạo luật này có hiệu lực tại Buryatia năm 1925, phá hoại giáo dục Phật giáo. 47 tu viện đại học và chùa nhỏ không hoạt động được. 1800 lạt ma học giả bị giam, lưu đày, hoặc vào trại cưỡng bách lao động. Hơn 100 vị lạt ma bị bắn chết.


Trong thập niên 1920, vài nơi trong xứ  Transbaikalia ( nhất là ở Aga)  cho đến vùng Shenehen  của Nội Mông thì còn tiếp tục truyền thống Phật giáo. Ngày 2-5 -1945, Hội đồng Nhân Dân Buryat ra nghị định mở cửa chùa Phật giáo. Các chùa chiền, tu viện được mở lại như Hambyn Sume ở Srednyaya Ivolga,  Ivolga Datsan ở  Buryatia và  Aga Datsan ở Aga Buryat của  Chita Oblast... được mở cửa từ 1946. Năm 1991, một học viện cao cấp gọi là  Dashi Choynhorlin  mở tại  Ivolga Datsan để đào tạo  tăng sinh, giáo sư, dịch giả , nghệ sĩ...Việc đào tạo theo quy mô  của  tu viện đại học Goman . Năm 1991, số đại học tu viện ở Buryatia lên đến 12. 

2. Phật giáo tại  Kalmykia

Kalmykia ở phía tây nước Nga. Kalmyks  là một quốc gia châuy Âu the only nation of Europe  có liên hệ nguồn gốc Mông Cổ , và cả quốc gia đều theo Phật giáo.   Đây là quốc gia theo thể chế cộng hòa , là cộng hòa Kalmykia,  là một liên bang phụ thuộc của liên bang Nga  .Dân Kalmykia đã di cư sang châu Âu, theo đạo Phật, lấy lạt ma làm vị lãnh đạo tinh thần.
Những người tị nạn chính trị  Kalmykia mở chùa Phật ở Trung Âu, như ở  Belgrade, Serbia, vào những năm 1920. Một số di cư sang Hoa Kỳ  vào cuối 1951-1952, họ lập chùa ở Monmouth County, New Jersey  vả vùng lân cận.  Geshe Wangyal, là một nhà tu người Kalmykia  đã lập Trung tâm Học viện và Tu viện  Tây Tạng ở Washington, NJ.

 
 Golden Temple Elista Kalmykia 

3. Phật giáo tại Tyva
Nước Tyva cộng hòa (hoặc Tuva) là một liên bang phụ thuộc Nga, nằm trong vùng Trung Á, phía nam Siberia, thủ đô  Kyzyl, dân số  307,930 (2010 Census).

Ở đây có ba tôn giáo chính: Phật giáo Tây Tạng, Chính thống giáo và  Sa man giáo (1). Lãnh tụ Tây Tạng Phật giáo hiệen nay là   Tenzin Gyatso, là vị Lạt ma thứ 14. Tháng 9 năm 1992, Ngài đã đến thăm Tuya ba ngày.  Dân Tuvan theo Phật giáo cộng với tôn giáo Saman bản xứ.
Phật giáo phát triển suốt 16, 17 thế kỷ. Phật giáo suy tàn thời Cộng sản. Nay đang phục hưng. Chùa chiền mở rộng đào tạo tăng ni và lạt ma. Đạo shaman của bản xứ cũng phát triển.Cuộc khảo sát dân số năm 2012 cho biết 61% dân số theo Phật giáo, 8% theo  đạo saman, 1,5% theo Chính thống giáo và Tin Lành giáo

Thời Nga Hoàng còn tại vì, Phật Giáo cũng rất thịnh hành ở nước Nga, có rất nhiều người quy y, tu học. Nhiều chùa và tu viện Phật Giáo được xây cất khắp nơi. Năm 1741, Hoàng hậu Nga Elizabeth đã có một tuyên ngôn, theo đó Phật giáo được công nhận là một trong những tôn giáo của nhà nước Nga. Hoàng gia luôn luôn thân thiện với Phật giáo. Năm 1764, Nữ hoàng Ecatherina II đặt ra chức vụ người đứng đầu Phật tử Nga. Do đó, Phật tử Nga đã thừa nhận bà là hiện thân của Tara Trắng. Tara Trắng là một trong những vị thần Phật giáo. Kể từ đó, tất cả các hoàng đế Nga - bất kể họ là phụ nữ hoặc nam giới, đều được tín đồ Phật tử Nga coi là hiện thân của Tara Trắng trên cõi nhân gian."

Chính em ruột của Nga Hoàng Nicholas II là hoàng thân Ukhtomsky cũng là một nhà nghiên cứu Phật Học và Ðông Phương học nỗi danh. Vị hoàng đệ này đã ủng hộ và thuyết phục Nga Hoàng về việc cho phép xây cất ngôi chùa Kuntsechoinei Datsan ở thành phố Petersburg vào năm 1908. Ðức Ðạt Lai La Ma thứ 13 cũng cúng dâng nhiều công đức về tịnh tài và pháp cụ cho ngôi chùa đầu tiên ở nước Nga.



  Những nhà Phật Học nổi danh là những Phật Tử Nga hồi đầu thế kỷ 20 như: Ivan Minayev, Sergei Oldenburg, Fyodor Stcherbatsky, Theodore Stcherbatsky và Cibikov là những Phật Tử tiên phong ở nước Nga. Thời đó Phật Giáo phát triển đến độ có cả trăm ngôi chùa và tu viện. Số Tăng, Ni xuất gia tu học lên tới cả nghìn người.

Nhưng cuộc biến loạn tháng 10 năm 1917 do những người Cộng Sản chủ xướng đã tàn phá tất cả các tôn giáo, trong đó Phật Giáo cũng bị ảnh hưởng nặng nề .Nhưng cuộc bạo động lật đỗ chế độ quân chủ ở Nga vào năm 1917 đã làm thay đổi tất cả chỉ trong vài năm, chế độ sắt máu cuả Lenin rồi Stalin đã hũy diệt tất cả các chùa, tu viện. Lại thanh toán tất cả những vị Tăng, Ni nào trái lệnh không chịu hoàn tục vào năm 1939, Phật Giáo và các tôn giáo khác hầu như mất hẳn ở nước Nga.
Ðến cuối thập niên 1960 thì nhà cầm quyền trở nên lưu ý vì nhận thấy nhiều nhà trí thức ở khắp nơi đang quy tụ quanh nhà Phật Học nổi danh là cư sĩ Bidya Dandaron. Mật vụ KGB đã chụp bắt và lên án tù chung thân vị cư sĩ này trong trại lao động khổ sai chỉ vì tội danh duy nhất là: " Truyền bá Phật Giáo". Hội Ân Xá Quốc Tế đã can thiệp nhiều lần, yêu cầu chính quyền Cộng Sản Liên Xô phóng thích vị cư sĩ này. Tiến sĩ Andrei Sakharov - người được giải thưởng Nobel Hòa Bình năm 1975 - củng tích cực can thiệp để trả tự do cho cư sĩ Bidya Dandaron.

Nhưng tất cả đều thất vọng và vị Bồ Tát Hoá Thân này đã tử đạo trong trại lao động khổ sai, trong khi một chân đã bị đánh gẫy vì những lần tra tấn dả man mà vẫn phải bò lết (vì đi không được) lao động. Sự hà khắc này làm xúc động nhiều người. Nhưng những Phật Tử trung kiên phần lớn là học trò cuả vị cư sĩ này vẫn tiếp tục tu học Phật Pháp một cách kín đáo và nhiệt thành trước sự đàn áp của Cộng Sản. Sau này các Phật Tử người Nga đã kể lại những chuyện tu học thầm kín đó như sau: " Khi tham dự một hoạt động Phật sự nào như Thiền, tụng niệm, thuyết pháp, đọc kinh sách, báo Phật Giáo v.v...ở một nơi nào đó. Các Phật Tử thường không đến thẳng nơi đó mà hẹn ở một trạm xe điện chẳng hạn. 

Rồi được một Phật Tử tới đón về nơi đó. Phật sự diễn ra trong căng phòng chật cứng những người yêu đạo; những bức tường quanh phòng có các hàng kệ xếp đầy kinh sách Phật Giáo. Ðiều nầy chứng tỏ sự học hỏi giáo pháp một cách thuần thành và uyên bác của người Phật Tử Nga. Không còn nghi ngờ gì nữa về sự nhiệt tâm và lòng thành của họ đối với Tam Bảo. Có nhiều người đã chọn những nghề bình thường để thích ứng hơn với sự tu học Phật Pháp thay vì những nghề cao sang. Có người thường xuyên đến tu học vào mùa hè ở Transbaikalia. Ðoàn Phật Tử nầy lại tiếp xúc với các đoàn Phật Tử tương tự và do đó tin tức về Phật Giáo được loan truyền rất nhanh. Do vậy mà ai cũng biết rằng điều gì đang xãy ra và đức tin của họ lại càng vững chắc hơn. Phật Tử Nga vẫn tích cực tu học   sau thời Josef Stalin. 

 "Họ tổ chức luân phiên tại nhà riêng các đạo hữu những buổi lễ tụng niệm, thiền, thuyết pháp, trao đổi những tin sinh họat Phật Giáo ở trong nước và tin Phật Giáo ở các nước trên thế giới mà họ có được hay chuyền cho nhau những sách báo Phật Giáo từ nước ngoài. Mỗi khi tổ chức như vậy phải đặt người canh gác mật vụ KGB và công an NKVD vì nếu bị bắt, sẽ lãnh án cải tạo khó có ngày về vì tội truyền bá tôn giáo. Thời Cộng Sản, hiến pháp Liên Xô có ghi hai điều: "Quyền tự do không tín ngưỡng " và " Quyền tự do chống tín ngưỡng", bên cạnh điều : "Quyền tự do tín ngưỡng"." "Sự tu học của Phật Tử Nga rất đáng khâm phục.

 Có người phải đi bộ hàng trăm cây số dù nắng, mưa, bảo, tuyết để đến nơi tu học nói trên. Có người cố học thuộc các đoạn kinh Phật, sách hay tin Phật sự ở các báo nước ngoài vì không thể đem theo các tài liệu này sợ bị bắt, để phỗ biến cho các Phật Tử khác. Những chuyện như thế sau này được kể lại đã làm xúc động thế giới."

Một tu viện Phật Giáo bị đóng cửa từ năm 1930 trong thời kỳ chống báng tôn giáo của Josef Stalin đã được sửa chữa và mở cửa lại cho các tín đồ Phật Giáo sinh hoạt.Nhưng vào cuối thập niên 1980, chế độ đã hoàn toàn sụp đổ ở nước Nga và các nước ở Ðông Âu nên đã có nhiều chuyển đổi thuận lợi cho Phật Giáo có cơ hội phục hồi lại như xưa ở nước Nga. Thành phố Petersburg có truyền thống nghiên cứu và sưu khảo về Phật Giáo . các học giả trong quá khứ đã giảng giải những cổ ngữ và kinh sách Phật Giáo. Truyền thống nầy lại được tiếp tục bởi các nhà nghiên cứu và sưu khảo ngày nay. Phật Giáo là một sinh lực linh động ở vùng đông Siberia thuộc nước Cộng Hòa Phật Giáo Buryatia. Những vùng khác như Chita, Irkutsk đã có những cơ sở lớn nhất của các Phật Tử Nga để tu học.

Vào tháng 6-1990, tại một buổi lễ ở chùa Ivolginsky Datsan trụ sở của các Phật Tử Nga, các vị Tăng, Ni và cư sĩ Phật Tử Á Châu đã tham dự phiên họp Hội Ðồng Chấp Hành Thế Giới về Ðại Hội Hòa Bình Phật Giáo Á Châu, một tổ chức cổ vũ hòa bình và hài hòa dựa trên những lời dạy của Ðức Phật. Các nhà lãnh đạo và học giả Phật Giáo từ nhiều nước Á Châu tham dự hội nghị củng kêu gọi sự nghiên cứu về di sản và văn hóa Phật Giáo có tính sử học. Các vị đại biểu Phật Giáo Nga trong Hội Ðồng Chấp Hành còn đề nghị thành lập ũy ban văn hóa, truyền thống và di sản Phật Giáo nằm trong cơ cấu tổ chức Ðại Hội Hòa Bình Phật Giáo để ủng cố sự đoàn kết giữa các Phật Tử Á Châu và các Phật Tử thế giới.

Trong bầu không khí "Glasnot" tự do ở cuối thập niên 1980, và cuộc chuyển đổi ôn hòa từ Cộng Sản sang Dân chủ của ông Mikhail Gorbachev và ông Boris Yelsin, người dân Nga đã được hưởng đầy đủ các quyền tự do, trong đó có quyền tự do tín ngưỡng. Do đó, Phật Giáo đang sinh động và phục hồi trên khắp nước Nga. Ðể tránh sự khó khăn và không an toàn của tình trạng bất hợp pháp, các đoàn thể Phật Giáo trên khắp nước Nga phải đăng ký để được phép hoạt động. Trên lý thuyết không còn một trở ngại nào nghiêm trọng vì Phật Giáo và các tôn giáo ở nước Nga không còn bị coi như thành phần tranh chấp về chính trị như thời Cộng Sản. Do đó rất nhiều tổ chức, hội đoàn Phật Giáo đã được thành lập và đăng ký sinh hoạt ở nhiều nơi trên nước Nga. 

Hội Phật Giáo Petersburg (The Petersburg Religion Society Of Buddhists) đã có năm nghìn Phật Tử ghi danh chính thức gia nhập hội. Còn nhiều Phật Tử khác chưa ghi danh. Hội nầy cũng được chính phủ trao trả lại ngôi chùa cổ Kuntsechoinei. Chùa đã được sửa chữa, tu bổ và hiện do Thượng Tọa Gelong Sameyev, người Nga, trụ trì. Lúc nầy chùa đang có hai mươi sa di người Nga tu học. Hội Phật Giáo Estonia (The Estonian Buddhist Association) với hai nghìn Phật Tử hội viên.
Còn nhiều hội đoàn Phật Giáo khác ở Riga, Latvia, Novosibirsk, Kiev, và Khalev cũng được thành lập.Hai ngôi chùa Ago và Ivolga đã được trùng tu và là nơi sinh hoạt cho hai mươi đoàn Phật Tử ở Siberia. Cộng đồng Phật Giáo Tashkent đã đăng bạ và khởi sự sinh hoạt.

Một trung tâm Phật Giáo mới được khánh thành ở Kalmykia. Cộng đồng Phật Giáo ở thủ đô Moscow rất phát triển với hai mươi nghìn Phật Tử. Các Phật Tử ở đây có hai hạnh nguyện là xuất bản một tờ báo Phật Giáo để có phương tiện tu học, nghiên cứu về giáo lý, triết lý, kinh sách Phật Giáo; cũng như phương tiện truyền thông tin tức, sinh hoạt và tình hình Phật Giáo ở nước Nga và các nước trên thế giới. Hạnh nguyện này đã thành. Tờ báo Phật Giáo đã xuất bản do cô Sasha Iakoleva làm chủ nhiệm. Báo phát hành toàn nước Nga. Ở thủ đô Moscow đã có mười nghìn độc giả. Hạnh nguyện thứ hai là tìm kiếm một vùng đất thật rộng lớn để kiến tạo một cảnh chùa thật hùng vĩ, đồ sộ tượng trưng cho Phật Giáo phát triển dũng mãnh ở thủ đô và các thành phố khác ở nước Nga.

Việc tìm kiếm vùng đất trống ở ngay thủ đô lúc này rất khó khăn và không thể làm được. Do đó Hội Ðồng Phật Giáo Nga đã mua một cao ốc ba tầng rất to lớn, nguyên là một nhà kho để cải biến thành ngôi chùa Phật. Phật Giáo Nga cần một số tiền rất lớn: một triệu (1,000,000) Mỹ kim để mua cao ốc và vùng đất bao quanh. Nhờ đạo tâm cao cả vì Phật Pháp, các Phật Tử Nga đã cúng dâng đầy đủ số tiền này. Khu cao ốc đã mua xong và hiện đang ở giai đoạn chỉnh trang, biến cải và xây dựng bên trong cũng như bên ngoài để tạo tác thành ngôi chùa thờ Phật uy nghi ở thủ đô. Các kiến trúc sư và kỹ sư các ngành đang thực hiện Phật sự to lớn này.
Moscow (Mạc Tư khoa) sẽ có một ngôi chùa và tu viện Phật Giáo đầu tiên ở thủ đô. Từ khi thủ đô nước Nga chỉ có một số ít Phật Tử thì nhu cầu cho một ngôi chùa và tu viện chưa bao giờ được nghĩ tới trước đó. Nhưng bây giờ thì số người Nga quy y Phật Giáo ở thủ đô Moscow mỗi ngày một gia tăng đáng kể nên Hội Ðồng Phật Giáo Nga đã quyết định xây cất một ngôi chùa không những chỉ dành cho các Phật Tử người nước ngoài thuộc các phái đoàn ngoại giao có tín ngưỡng Phật Giáo nữa.

Trong những ngày này, Mười ngày văn hóa Phật giáo bắt đầu được khai trương tại thủ đô phía Bắc của Nga. Đây là Festival lần thứ ba của những người theo giáo huấn Đức Phật ở St Petersburg. Năm nay, lễ hội được tổ chức nhân dịp kỷ niệm 270 năm ngày Phật giáo chính thức được công nhận là một trong những tôn giáo của nhà nước Nga.

Tại Liên Hịêp Nga (The Russian Federation), Phật Giáo vừa hồi sinh, vừa phát triển rất nhanh, và mạnh. Hiện có hàng triệu người Nga tín ngưỡng Phật Giáo.Ba nước Cộng Hòa Phật Giáo (The Three Buddhist Republics):Kalmykia, Tuva, Buryatia dân chúng đều là tín đồ Phật Gíáo. Chỉ riêng nước Cộng Hòa Phật Giáo Buryatia đã có dân số hai triệu (2.000.000) người hoàn toàn là Phật Tử.

 II.  KIẾN TRÚC PHẬT GIÁO NGA
A. ST. PETERSBURG

1. TU VIỆN ĐẠI HỌC ST.PETERSBURG

Tu viện này trước mang tên là St Peterburg Datsan nhưng sau đổi tên là  Gunzechoyney Datsan.
Từ năm 2009, lễ hội Mười ngày do chùa  Gunzechoyney ở St Petersburg khởi xướng được tổ chức hàng năm. Chùa được xây dựng trên bờ sông Neva vào năm 1915. Đây không chỉ là một trong những ngôi chùa cổ nhất ở Nga, mà còn là ngôi chùa Phật giáo đầu tiên ở châu Âu. Đầu thế kỷ XX, ở St Petersburg chỉ có khoảng hai trăm Phật tử. Mặc dù ở nước Nga không có nhiều người theo đạo Phật, các vị hoàng đế Nga luôn luôn đối xử với họ tử tế và giúp đỡ họ về mọi mặt. Để hỗ trợ Phật giáo, thậm chí nhà nước đã thông qua một văn kiện đặc biệt, đặt nền móng cho sự phát triển của hệ thống tôn giáo-triết học này.

Bảo tàng dân tộc học ở St Petersburg sẽ có món quà bất ngờ dành cho các Phật tử. Tại Mười ngày văn hóa Phật giáo, lần đầu tiên trưng bày bảy tặng vật độc đáo, do Lạtma Pandito Hambo Dashi-Dorji Itigelov tặng Nga hoàng Nicolai II vào ngày kỷ niệm lần thứ 300 của triều đại Romanov. Trong một thời gian dài, các vật báu này được coi là mất tích.  Bà Alla Namsaraeva nói :

"Lạt ma Itigelov là vị lãnh tụ thứ 12 của của Phật tử Nga. Năm 1913, từ Buryatia,  ông đã đến St Petersburg, sau khi vượt chặng đường 6500 dặm để dự kỷ niệm 300 năm triều đại Romanov. Ông mang theo những món quà tặng cho tất cả các thành viên Hoàng gia. Có ba thứ tặng vật bằng bạc và bốn thứ bằng đồng. Tặng vật bằng đồng được dâng cho các công chúa. Quà cho Nga hoàng Nicolai II là chiếc khay bạc lớn, Hoàng hậu được tặng chiếc hộp bạc và Hoàng tử nhận bức tượng Phật. Tất cả các tặng vật này được chuyển đến lưu trữ tại bộ phận Dân tộc học của Bảo tàng Nga. Do nhầm lẫn mà người ta coi đây là quà tặng của người Kalmyk. Gần đây, khi nghiên cứu hồ sơ, một trong những nhân viên của bảo tàng đã phát hiện các hiện vật này là quà tặng Nga Hoàng Lạt ma Itigelov.”

Đối với các Phật tử, việc tìm lại những món quà này là một biểu tượng thiêng liêng. Năm 1927, khi đang thiền định, Lạt ma Itigelov Hambo, bây giờ được gọi là "Lạt Ma thánh cốt” đã qua đời, thọ 75 tuổi. Ông được chôn cất ở ngoại ô Ulan-Ude, thủ phủ của Buryatia. Gần mười năm trước, cỗ quan tài với thánh cốt đã được cải táng.

Và thật ngạc nhiên, thi thể ngài Itigelov, người ngay trước khi chết đã tuyên bố sẽ đầu thai, rất ít bị phân hủy. Ngày nay, thánh cốt Lạtma Pandito Hambo Dashi-Dorzho Itigelov trở thành một trong những thánh tích thiêng liêng của đạo Phật. Ba năm trước, để bảo vệ hiện vật quý giá, trong điện thờ Ivolginsk đã xây dựng một cung điện thủy tinh đặc biệt gọi là Cung hồ quang Etigel. Tín đồ Phật Giáo chỉ có thể vào thăm cung này trong những ngày lễ lớn của Phật giáo.

 The Datsan Gunzechoinei 

 

 
Saint Petersburg Datsan 

2. CHÙA KALACHAKRA

Khoảng năm 1909, Lat ma Agvan Dorjiev tuân lệnh Nga hoàng Nikolai Romanov khởi sự xây chùa  cho dân Buriat và Kalmyk trong thành phố. Agvan Dorjiev (1854-1938)  là người Mông Cổ  ở  Buryat, đã tu học ở  Lhasa  và trở thành  giáo viên phụ giảng  của Đat Lai Lat ma  thứ 13.Chùa này là chùa đầu tiên  ở châu Âu.  Chùa mở cửa năm 1915,  vào giữa đế nhất thế chiến. Năm 1917, chùa bị Hồng quân phá hoại phải đóng cửa. Chùa hoạt động vào 1990 vào thời Perestroika của Gorbachev .
Năm 2003 và 2005, Ngài Kirti Tsenshab Rinpoche giảng dạy tại đây. 
 KALACHAKRA có một hệ thống chùa và học viện tại nhiều quốc gia :Tây Tạng,Ấn Độ, Mông Cổ, Hawaii, Spain, Australia...
Địa chỉ:
The Saint Petersburg Temple of Kalachakra
197183, St. Petersburg, Primorsky prospect, 91

Kalachakra temple St. Petersburg




3. PHẬT GIÁO ĐOÀN DHAHARMALING (Buddhist Congregation Dharmaling)

Phật giáo đoàn này là một tổ chức Phật giáo được chính quyền Slovenia chấp thuận. Trung tâm này do  Lạt ma tối cao giảng dạy theo lời Phật, và thích hợp cho mọi quốc gia.  Trung tâm được Lama Shenpen Rinpoche là vị lat ma thường trú tại Slovenia dạy. Ngài sinh ở miền tây nước Pháp, sau theo Phật giáo và được các lạt ma chấp nhận từ 1992. Năm 2000, ngài được mời dạy tại Slovenia và nhiều quốc gia khác.Trung tâm và chùa thành lập từ January 1, 2007.
Giáo đoàn này có cơ sở chính tại Slovenia, và nhiều chi nhánh tai Hungary, Autria,  Romania, Pháp..
Địa chỉ tại Nga:

 Buddhist centre and Temple in Ljubljana, Slovenia
Address: Saint-Petersburg, Russia  
Tradition: Tibetan, Vajrayana
 mekikova11000 Ljubljana, Slovenia

Email
office@dharmaling.org
Website
http://www.dharmaling.o

* E-mail: spb @ dharmaling.org

 
Dharmaling Temple in Ljubljana 
 Dharmaling Buddhist Centre
Photo: End of day 4 
Vẽ Mạn Đà La
 Photo: Offering the precious sand to the nagas and other beings in the river
 Dharmaling Buddhist Centre


 Thumbnail

 
B. BURYATIA
Số chùa chiền và tu viện tại Buryatia rất phát triển trong thời Nga hoàng. Các tài liệu lịch sử còn ghi lại tên các chùa và tu viện thời ấy và hiện nay như sau ở Buyatia, Chita và Irkutsk Oblasts:
    1.Hambyn-Hure Datsan of Ulan-Ude: city of Ulan-Ude
    2.Aga Datsan: Chita, Aga Buryat Autonomous Area, village of Aginskoye
    3.Atsagat Datsan: Republic of Buryatia, village of Atsagat
    4.Kurumkan Datsan: Republic of Buryatia, Kurumkansky (Huramhaanai in Buryat) District, village of Kurumkan
    5.Sartul-Gegetuy Datsan: Republic of Buryatia, Jidinsky (Zede) District, village of Gegetuy
    6.Atagan-Dyrestuy Datsan: Republic of Buryatia, Jidinsky (Zede) District, village of Dyrestuy
    7.Tabangut-Ichotuy Datsan: Republic of Buryatia, Jidinsky (Zede) District, village of Dodo-Ichotuy
    8.Egita Datsan: Republic of Buryatia, Yeravninsky (Yaruunyn) District, village of Egita
    9.Sanaga Datsan: Republic of Buryatia, Zakamensky (Zahaaminai) District, village of Sanaga
    Ivolga Datsan: Republic of Buryatia, Ivolginsky (Ebilge) District, village of Vyerkhnyaya Ivolga website
    10.Kizhinga Datsan: Republic of Buryatia, Kizhinginsky (Hezhengyn) District, village of Kizhinga
    11.Baldan Breybun Datsan: Republic of Buryatia, Kyakhtinsky (Hyaagtyn) District, village of Murochi
    12.Tugnui Datsan: Republic of Buryatia, Mukhorshibirsky (Muhar-Sheber) District, village of 13.Mukhorshibir
    14.Okinsky Datsan: Republic of Buryatia, Okinsky (Ahyn) District, village of Orlik
    15.Tamcha (Gusinoozyorsk) Datsan: Republic of Buryatia, Selenginsky (Selenge) District, village of Gusinoye Ozero (Tamcha)
    16.Kyren Datsan: Republic of Buryatia, Tunkinsky (Tünhen) District, village of Kyren
    17.Hoymor Datsan: Republic of Buryatia, Tunkinsky (Tünhen) District, Arshan resort
    18.Ugdan Datsan: Transbaikalia District, Chita Oblast, village of Ugdan
    19.Ust-Orda (Abaganat) Datsan: Irkutsk Oblast, village of Ust-Orda
    20.Ana Datsan: Republic of Buryatia, Khorinsky (Hori) District, village of Ana
    21.Chesan Datsan: Republic of Buryatia, Kizhinginsky (Hezhengyn) District, village of Chesan
    22.Chita Datsan: Transbaikalia Kray, Chita Oblast, city of Chita
    23.Tsugol Datsan: Chita Oblast, village of Tsugol
      Sau đây là một vài Datsan tiêu biểu:

      4. ĐẠI HỌC TU VIỆN HAMBYN-HURE

      Datsan Hambyn-Hure là đại học tu viện Phật giáo ở  Ulan-Ude  ở bắc Siberia  (Transbaykal), nước Nga. Đại học này mở 1994.

      Datsan Hambyn-Hure (Ulan-Ude).jpg
      Datsan Hambyn-Hure (Ulan-Ude).jpg
      Hambin-Hyre.JPG
      Мистерия Цам.jpg  

      5. TU VIỆN ĐẠI HỌC IVOLGINSKY

      Ivolginsky datsan (Russian: Иволгинский Дацан) là chùa Phật ở Buryatia, Russia, cách Ulan Ude, 23 km, gần làng  Verkhnyaya Ivolga. village. Tu viện mở cửa năm 1945, và là trung tâm Phật giáo duy nhất ở Liên Xô. Ban đầu là một chùa nhỏ, sau trở thành trung tâm tu viện do lat ma Pandido Khambo lama,  vị lãnh đạo toàn thể lat ma Liên Xô làm trụ trì.
       Đó là trung tâm tinh thần Phật giáo Liên Xô  , sau đó là cơ quan của Giáo hội Tăng già Phật giáo Nga.  Viện đại học Phật giáo «Dashi Choinkhorling» mở cửa năm 1991, và gắn bó với tu viện đại học này.
      Ngày 20/01/2005, Viện đại học Buryatia chính thức cấp giấy phép công nhận Học viện Phật giáo tại Buryatia thành Viện đại học Phật giáo Damba-Dorzho Zayayev, lấy danh hiệu của Lạt-ma Khambo, đặt tại Tu viện Ivolgin. Đây là Viện đại học Phật giáo đầu tiên ở Nga.

      Viện đại học Phật giáo này đạo tạo từ cử nhân đến tiến sĩ theo quy định chung của Bộ giáo dục Nga. Sinh viên muốn theo học ở Viện đại học này ít nhất phải tốt nghiệp phổ thông trung học và phải trải qua đợt thi tuyển sinh. Theo các giáo sư ở các học viện Phật giáo nước ngoài, sinh viên Nga rất giỏi các môn học như toán, vật lý, hóa học, thiên văn, v.v... Vì thế, khi nghiên cứu về đạo Phật, họ đã nhanh chóng tiếp thu giáo lý đạo Phật một cách hữu hiệu.Phật tử ở Nga hy vọng rằng, sự ra đời của viện Đại học này sẽ là nơi đào tạo  nhiều người con Phật để có thể truyền bá tư tưởng Phật giáo rộng rãi hơn, lợi ích hơn, góp phần giữ gìn trật tự và an bình cho đất nước.
      Những người có công rất lớn trong phong trào nghiên cứu Phật giáo tại Nga phải kể đến viện sĩ hàn lâm Vasily Vasiliyey, sinh năm 1818, người kế thừa ông là người học trò Ivan Minayev, và nhiều nhà nghiên cứu Phật học khác như ông Sergei Oldenburg, (1863-1934), Fyodor Ippolitovich Shcherbatskoy (1866-1942), v.v…
      Trong số đó, đặc biệt là ngài Agvan Dorzhiev (1854-1928), Ngài đã từng làm cố vấn giảng dạy cho đức Đạt-lai-lạt-ma thứ 13 thời thơ ấu. Sau này, Ngài trở về Nga để chỉnh đốn và xây dựng Phật giáo tại Buryatia.

      File:Ivolga monastery.jpg
      Ivolga Monastery 
       Ivolga Monastery - Etigel Khambin Temple.
      Ivolginsk Buddhist Datsan, Main Temple, Interior, Ivolga, Russia
      Ivolghinsky Datsan
       Tổng thống Putin đến thăm Ivolghinsky Datsan
      Ivolghinsky Datsan
       
       Ivolghinsky Datsan
       
      user posted image
      Ivolginsk Datsan

      6. TU VIỆN ĐẠI HỌC ANINSKY


        Aninsky Datsan (bur. Ana Dothan) - một trong những datsan lâu đời nhất của Nga. Nằm ở phía đông của nước cộng hòa Buryatia ngày nay .  Aninski Datsan được xây năm 1775 và là một trung tâm y học Tây Tạng. Ở thế kỷ XIX, tu viện đại học này rất lớn, là nhà của 1000 lạt ma, hàng trăm sinh viên. Tu viên đại học này được dân trong vùng kinh trọng.

       Aninsky Datsan là trung tâm của tôn giáo, giáo dục, xuất bản, biểu tượng, đồ họa, nghệ thuật sân khấu . Tu viên  lúc này là tòa nhà bằng gỗ đã bị đốt cháy một lần vào năm 1811 . Dugan là một tòa nhà hai tầng có lan can, ban công, hang động và hốc. Tầng đầu tiên bắt đầu với chiều cao của con người. Thay vào đó, mái nhà được xây dựng một kim tự tháp bằng đá. Chiều cao của kim tự tháp từ 10 đến 15 mét. Kim tự tháp đã được hỗ trợ 30 cột.Năm 1825, ông tách ra khỏi Aninskogo Egituysky Datsan.Vào cuối thế kỷ IXX xung quanh Aninskogo datsans sống hàng chục ngàn người.  

      Datsan là một ngôi làng lớn, chiếm trung tâm của đền thờ và tu viện phức tạp, là trung tâm buôn bán  gần Chita đường, toàn bộ thung lũng đã được xây dựng với những ngôi nhà và cửa hàng của Bukharan người Do Thái (burzhahe), các thương gia Trung Quốc, Nga, Mông Cổ doanh nhân, những người hành hương Tây Tạng.Sau cuộc bạo loạn năm 1917 Datsan đã được đóng lại.  Năm 1931, quân Liên Xô đem đại pháo phá hủy datsan này,  một số lạt ma chết, số còn lại bị đày đi Gulag. Trong thời Xô Viết các datsans xây dựng sử dụng như là chuồng ngựa, nhà để xe, vv.. Cho đến những năm 1950, các tòa nhà sụp đổ, và trở thành hoang phế suốt triều đại cộng sản. Từ những năm 1990, tu viện  được phục hồi.

      Aninski Datsan before it was destroyed
       Aninski Datsan
      Tu viện hoang phế trong thời cộng sản
      Inide the Datsan walls
      View from Above 

      C. KALMYKIA

       7.TU VIỆN BURKHAN BASKIN ALTAN  (GOLDEN ABODE OF SHAKYAMUNI)

       Tu viện Golden Abode of Buddha Shakyamuni xây năm  2005 ở phía nam Nga, vùng Elista  là một ngôi chùa  Phật lớn nhất châu Âu .  Trong thởi cộng sản, chùa chiền là đạo Phật bị phá hoại, nay đang phục hưng.Đức Đạt Lai lạt ma thứ 14 đã làm lễ khánh thành vào ngày 27-12-2005, có trên 5,000 người tham dự.Trong buổi lễ,Tổng thống Cộng hòa Kalmykia  Kirsan Ilyumzhinov  đã  tưởng niệm tại chùa những ai đã bị cộng sản giết và đày Siberia  vào ngày 27-12- 1943.

      Golden Abode of Buddha Shakyamuni


       File:Golden Temple Elista.jpg
      Kalmykia. Golden Abode of Buddha Shakyamuni
      Golden Abode of Buddha Shakyamuni
      Buddhist monks in Europe. Буддийские монахи на концерте Океан сострадания Элиста  

      8. TU VIỆN GEDEN SHEDDUP CHOIKORLING

       Tu viện Geden Sheddup Choikorling là một tu viện Tây Tạng ở Elista, nước cộng hòa Kalmykia, thuộc Nga. Tu viện mở cửa ngày 5-10- 1996 với sự tham dự của trên 30,000 dân chúng. Đây là tu viện Tây Tạng đầu tiên được xây trong vùng  kể từ  1920. Đây là tu viện  đầu tiên của nền Cộng hòa  kể từ khi Stalin  ra lệnh phá hoại chùa chiền  trong thời Tập thể hóa và thời Đại khủng bố của thập niên 1930.
      Theo tiếng Tây Tạng, Geden Sheddup Choikorling co nghĩa là "Nơi an trú thiêng liêng cho lý thuyết và thực hành của Phái Lạt ma áo vàng"( "A Holy Abode for Theory and Practice of the School of Gelugpa) .Đức Đạt lai lạt ma đời14  chọn đất và đặt tên  khi ngài  ra ngoài thủ đô Elisa  trong dịp ngài viếng cộng hòa Kalmykia  vào mùa hè 1991. Chùa có tượng Phật Thích Ca.

       
      Geden Sheddup Choikorling Monastery


      9. TU VIỆN OKINSKY
       
       http://upload.wikimedia.org/wikipedia/et/thumb/3/39/Burjaatia_datsan_vanTao.gif/220px-Burjaatia_datsan_vanTao.gif
       Okinsky datsan (Окинский дацан) in Orlik


      D. CZECH

      10. TRUNG TÂM DHARMA CENTER

      Tushita Meditation Centre là trung tâm học tập va thực hành Phật pháp theo truyền thống Đại Thừa Tây tạng . Trung tâm này nay ở Bắc Ấn Độ, giữa những núi đồi rậm rạp.gần  thành phố  McLeod Ganj - là nơi Ngài Đat Lai Lat ma thứ 14.
       Trung tâm Tushita nhắm truyền thụ Phật pháp cho mọi người ở mọi quốc gia. Trung tâm Tushita được thành lập năm 1972  do Lama Thubten Yeshe, là giáo sư về Phật giáo Tây Tạng truyền thống. Vì Ngài Yeshe viên tịch năm 1984,  đệ tử chinh của Ngài là Lama Zopa Rinpoche thay Ngài điều khiển  Tushita và  FPMT (Foundation for the Preservation of the Mahayana Tradition).


      Tushita là thành viên của FPMT - là một mạng lưới của trên 40 trung tâm thiền và phục vụ xã hội trên 30 quốc gia trên thế giới

      Địa chỉ tại Nga:
      Tushita Dharma Center
      Address: pr. Oktyabrya, 101/1a, 102  Ufa 450000
      Tradition: Vajrayana, Tibetan, Gelugpa
      Phone: +7 347 2355622
      E-mail: mail@@tushita.ru
      Website: http://www.tushita.ru
      Find on:
      Spiritual Director: Venerable Geshe Jampa Tinley

      Lama Zopa Rinpoche  giảng dạy 
       
       Tushita Meditation Centre

      E. MAC TƯ KHOA

      11. TRUNG TÂM DRIKUNG KAGYU RATNA SHRI 


      Trung tâm này có gần 40 chi nhánh trên các quốc gia trên thế giới.

      Argentina / australia /Austria  /Canada /Chile /Croatia /Czech Republic /Estonia /France
      /Germany /Hong Kong /Hungary /India /Israel /Italy /Japan /Latvia /Libanon /Lithuania
      /Malaysia /Mexico /Mongolia /Nepal /New Zealand / /Neru /Poland /Russia /Singapore
      /Spain / Sweden /Switzerland /Taiwan /Tibet /Ukraine /United Kingdom /United States /Vietnam

      Tại nước Nga, trung tâm chính là:
      Drikung Kagyu Ratna Shrin/a
      n/a Moscow Russia
      http://drikung.ru
      Contact Person: Alexander Bedcher,
      Alexander Dogaev
      Phone: +7 (926) 9035959

      Tại Nga có trung tâm ở Moscow và Estonia .
      Trung tâm Phật giáo Tây Tạng “Drikung Kagyu Ratna Shri” ở Mạc Tư Khoa  được thành lập năm 2009 do Ngài Kyabje Garchen Rinpoche và Ngài H.H. Drikung Kyabgon Chetsang, viện trưởng viện Drikung Kagyu school. Khoảng năm 2003, Ngài Kyabje Garchen Rinpoche đã thăm Moscow  nhiều lần và ngỏ ý xây một  trung tâm Phật giáo để dạy Phật pháp cho dân chúng tại đây.

       
       Drikung Kagyu Ratna Shri” ở Mạc Tư Khoa
       
       Drikung Kagyu Ratna Shri” ở Mạc Tư Khoa
       

      Trung tâm  Estonia thành lập từ 1992.Trung tâm   Drikung Kagyu Ratna Shri  là trung tâm Phật giáo Tây Tạng ở Tallinn, có mục đich dạy Thiền, dạy Phật pháp. Có nhiều cách thiền theo phái  Drikung Kagyu  cổ truyền.  Mỗi cá nhân có thể tìm thấy con đường thích hợp cho mình.

      Địa chỉ: Vilmsi 45A-2
      Tallinn
      Estonia 10412
      Ain Starast, President
      +372 56479868
      drikung@drikung.ee
      Lineage
      Tibetan: Drikung Kagyu
      Lineage holder / Director
      Drupon Konchok Sangyas Rinpoche
      Members & Friends   22
      Language(s)
      Estonian, English 

       
       Drikung Kagyu Ratna Shri ở Estonia
       Drikung Kagyu Ratna Shri ở Estonia
       

      12.THIỀN VIPASSANA 

      Đây là một phái Thiền tên là Vipassanā  do  Satya Naravan Goenka (sinh năm 1924), người Miến Địện giảng dạy . Ông là đệ tử củaSayagyi U Ba Khin.Ông Goenkađã đào tạo  hơn 800 đạo sư, và mỗi năm dạy 100,000 đệ tử theo phép  thiền Vipassana. Ông nhấn mạnh rằng đức Phật dạy pháp, dạy Tự do, là những điều phổ quát toàn cầu, không riêng rẽ địa phương nào, sắc tộc nào.
       Ông nói rằng  Thiền Vipassana là một khoa học kinh nghiệm, hiểu biết sâu xa, đưa ta đến chân hạnh phúc và  hòa bình. Mỗi khóa thiền là 10 ngày.
       Ông đã xây được một cơ sở Thiền, và khánh thành vào tháng 11-2008, gọi tên là Chùa Vipassana Toàn Cầu (  Global Vipassana Pagoda) ở gần Mumbai. Ông hy vọng đây là cái cầu nối kết các dân tộc , các cộng đồng trên thế giới  để đi đến hòa đổng và hòa bình.
      Chùa này có đặc điểm là có cái vòm rất lớn mà không có cột đá. Vòm lớn gấp đôi điện Basilica của St. Peter tại Vatican. Đại điện để ngồi Thiền có chu vi  280 feet, có 8,000 chỗ ngồi, cao 325 feet, ngang với tòa nhà 30 tầng lầu.  Khoảng 2,5 triệu tấn đá đã đem dùng trong việc xây cất.
      Chùa có chi nhánh tại Nga:
      Address: 111555 Moscow, Molostovih Street, 1-4-593; Russia  
      Tradition: Theravada, S.N. Goenka Vipassana
      E-mail: vipassana@mail.ru
      Contact: Vladimir & Sveta Karpinsky.

       Chùa Vipassana Toàn Cầu ở Mumbai
      File:Prachenburi vipassana center entrace.jpg 
      Cổng vào
      File:Prachenburi vipassana center dhamma hall.jpg
      Chánh điện
      File:Prachenburi vipassana center room.jpg
      Một thiền phòng 
       
       
       
       Chùa Vipassana Toàn Cầu ở Munbai
       
       Trung tâm Vipassana ở Moscow
       
       Trung tâm Vipassana ở Moscow

      13. TĂNG ĐOÀN PHẬT GIÁO TAM BẢO ,Moscow Sangha


       Địa chỉ:
      Novogireevskaya Street 14-2-34
      Moscow 111401
      Email:
      mcfmosk@online.ru
      Tel:
      (7) 095.304.4562


      Москва
       Будда Шакямуни
      Падмасамбхава 

      14. TĂNG ĐOÀN DZOGCHEN   (Dzogchen Sangha in Moscow )

      Tăng đoàn  này do Sergey Doudko thành lập này năm 1997 và do  Sergey Gladkih làm chủ tịch,  Dzogchen Khenpo Choga Rinpoche giảng dạy.
      Tăng đoàn Dzogchen có chi nhánh ở Hongkong, Nhật Bản, Hoa Kỳ, Nga.
      Ban Quan trị trung ương có:

      Publisher – Editor
      Robert Lapham
      DzogchenConnect@gmail.com
      Managing Editor
      Jeffrey Harker
      Assistant Editor & Technical Staff
      Lily Shushan
      Assistant Editor
      Jack Gordon
      Assistant Editor
      Kristen Jennings-Manners
      For ideas, comments, suggestions,
      photos or contributions
      contact us at: DzogchenConnect@gmail.com

      Trung tâm mong ước thành lập Đại học Tăng Đoàn  Dzoghen  của Phật giáo tại Nga.

      Email: eugene.golyuk@gmail.com
      Website: http://www.dzogchenlineage.ru/


       
       H.E. Dzogchen Khenpo Choga Rinpoche
       
       Dzogchen Sangha Moscow
       


      A photo on Flickr 
      Photo: Dear Sensible Ones, 
These days there have been many disasters occurring around the world. To prevent dangers and improve the current situation, visualize all Buddhas in your heart and have great compassion and love toward all beings and then sincerely recite the following refuge prayer many times:

“Namo Buddhaya. 
For the True Happiness of all beings, 
I will swiftly become Buddha in this very life. 
Therefore I joyfully practice the Buddha Path.

Namo Buddhaya. Namo Dharmaya. Namo Sanghaya.

I take refuge in Buddha. 
Buddha is my guide. Buddha is my nature.
I take refuge in Dharma. 
Dharma is my path. Dharma is my savior.
I take refuge in Sangha. 
Sangha is my companion. Sangha is my support.

May all humans have faith in the present 
       and confidence in the future. 
May all humans be free from greed to things 
       and anger to beings. 
May humans not destroy the environment or torture animals.
May humans not engage in violence or threaten each other.

May all beings abandon negative thinking 
       and negative conduct.
May all beings engage in positive thinking 
       and positive conduct.
May all beings be free from fear and suffering. 
May all beings have joy and happiness.”

Please recite this prayer every day at least seven times. This powerful prayer will bring great benefit for yourself and all beings mentally and physically both now and in the future.

With love and blessings,
Dzogchen Khenpo Choga Rinpoche

Composed at the auspicious conclusion of the Fifth Dzogchen Lineage Internship Program at the Dzogchen Retreat Center, USA on the full moon of October 29th, 2012.
      Photo: We rejoice in the auspicious completion of the 2012 Dzogchen Lineage Autumn Retreat. 

Please visit http://www.dzogchenlineage.org/schedule.html 

for information on upcoming teachings and retreats with Dzogchen Khenpo Choga Rinpoche and authorized teachers of The Buddha Path.


      CHÚ THÍCH
      ___
      (1). Schamanism: sa-man giáo: Một tôn giáo gốc Thổ Nhĩ Kỳ, có hình thức như đồng bóng, cầu khẩn thần linh, thờ tổ tiên.
      (2). Tông phái Bon (Bonpo) là một hệ phái Phật giáo Tây Tạng cổ truyền, bắt nguồn  đất Olmo Lungring là giải đất  ở phía tây Tây Tạng ngày nay, thuộc Tazig , rồi lan đến Zhang Zhung là vùng phía tây Tây Tạng.