Hữu Loan: 'Tôi không có ý định 'bán' Màu tím hoa sim'
Nguyễn Anh Tuấn
Sau ngày nhà thơ Hữu Loan "bán" bài thơ "Màu tím hoa sim", đã có một số tổ chức, cá nhân khác ở trong và ngoài nước đến đặt vấn đề muốn được khai thác toàn bộ những tác phẩm thi ca do ông sáng tác. Song ông không đồng ý bởi nhiều lý do, cơ bản nhất là: "Thơ tôi làm ra không phải để bán...". Dưới đây là cuộc trò chuyện với nhà thơ.
- Xin ông cho biết những cảm xúc của mình khi viết nên bài "Màu tím hoa sim" được nhiều người coi là một "kiệt tác" của thi ca VN thế kỷ 20?
Nhà thơ Hữu Loan.
-
Làm sao tôi có thể quên được điều đó. Màu tím hoa sim là màu tang
thương của một tình yêu định mệnh, tình vợ chồng ngắn ngủi mà giờ đây nó
chỉ còn lại trong ký ức của riêng tôi. Đó là một mối tình ly kỳ nhất và
tôi là người may mắn nhất được tạo hóa ban tặng. Ngày tôi đặt chân đến
gia đình ông Lê Đỗ Kỳ (sau này là nhạc phụ) làm gia sư cho ba người con
trai của ông, cũng là ngày vợ ông ấy sinh hạ một bé gái xinh xắn. Nhưng
có một điều khác thường ở chỗ là cô bé không cất tiếng khóc chào đời như
mọi đứa trẻ khác. Gia đình họ mang cô bé đặt lên trên nắp một cái thùng
phuy để cầu nguyện một điều gì đó, tôi tò mò lại ngắm nhìn thì cô bé
nhoẻn miệng cười với tôi. Lớn lên, tôi đi đâu cô bé ấy cũng đòi đi theo.
Và còn một điều kỳ lạ nữa là khi tôi quay trở lại làm gia sư dạy học cho chính cô bé sau này là vợ mình, nhà ông tham Kỳ lúc nào cũng có vài ba mươi người ăn, kẻ ở hầu hạ thế nhưng cô ta luôn giữ vali và không cho bất kỳ ai giặt quần áo của tôi, mà tự tay cô ấy giặt, là lấy rồi gấp xếp vào vali cho tôi. Cô bé càng lớn càng đẹp, một vẻ đẹp thánh thiện. Chúng tôi cưới nhau ngày 16/2/1949 thì đến ngày 29/5 cùng năm đó, vợ tôi tên là Lê Đỗ Ninh mất do chết đuối, khi tôi đang hoạt động cách mạng ở Nưa (huyện Triệu Sơn, Thanh Hoá). Đau thương này kéo dài lắm. Và cũng chính vì lẽ đó nên sau khi cô ấy mất, tôi có ý định không lấy vợ nữa. Mỗi lần nhớ tới cô ấy là tôi lại "khóc" ra một quãng của bài thơ Màu tím hoa sim hoàn chỉnh bây giờ.
- Nhưng rồi định mệnh lại đưa ông đến với một người phụ nữ khác, sống cùng ông đến ngày hôm nay và đã sinh cho ông tới 10 người con...
- Người vợ thứ hai là bà Phạm Thị Nhu, sống với tôi hơn 50 năm rồi. Bà ấy cũng là một người phụ nữ sâu sắc. Tôi vẫn chưa thể nào quên được hình ảnh của một cô bé vào mỗi buổi chiều lại lén lút đứng bên ngoài song cửa sổ nghe tôi giảng Kiều ở trường Mai Anh Tuấn. Khi gặp nhau, cô bé ấy mới nói vì đi nghe tôi giảng Kiều nên nhiều hôm để trâu ăn lúa, nên bị bắt phạt. Thì ra cô ta cũng là người có tâm hồn. Khiến tôi vẫn phải suy nghĩ rất nhiều mới có quyết định này. Rất may là sự quyết định của tôi đã không nhầm.
- Điều tâm đắc nhất trong những tác phẩm của ông là gì?
- Trong thơ tôi có niềm khát khao cháy bỏng cho một đất nước được tự do, cho dân tộc được giải phóng khỏi ách đô hộ, đó là niềm tâm đắc lớn nhất. Còn nhớ, ngày đó có một viên trung tướng phục vụ cho thực dân Pháp được giao nhiệm vụ theo dõi để ám sát tôi. Vì lý do gì thì tôi không biết, nhưng ông ấy đã tìm gặp và nói với tôi rằng, khi ông ta đọc xong bài thơ Yên Mô thì ông ấy đã từ bỏ ý định ám sát tôi. Ông ấy rất yêu bài thơ Yên Mô của tôi viết về quê hương ông. Viên trung tướng nói, mỗi một lúc ông nhớ quê là lại đọc bài Yên Mô. Mỗi lúc định giết tôi, viên tướng lại nhớ đến quê mình nên lại thôi. Nhà nghiên cứu và phê bình văn học Đặng Thai Mai cũng đã từng nói rằng, ông rất thích câu thơ cuối cùng trong bài Yên Mô: "Canh làng du kích Yên Mô/ Nửa đêm trăng mọc đỏ như cháy đồi".
Ông Đặng Thai Mai nhận xét rằng, câu thơ đã đốt cháy rực cả bài thơ lên. Nửa đêm trăng mọc, nhưng người ta cứ tưởng là du kích đánh cháy đồn địch. Cái sức sống mạnh mẽ trong mỗi tác phẩm thi ca là ở chỗ phải ghi được dấu ấn trong một thời khắc đặc biệt. Bài thơ Tình thủ đô cũng là một minh chứng xác thực cho niềm tâm đắc mà tôi vừa nói ở trên. Vào những năm 50 của thế kỷ trước, đất nước ta gặp rất nhiều khó khăn trước kẻ thù xâm lược là thực dân Pháp. Một bộ phận trí thức chán nản, muốn quay lại nội thành Hà Nội. Nhưng bài thơ Tình thủ đô đã kêu gọi được tầng lớp trí thức là giáo viên, bác sĩ vững tin ở lại với kháng chiến, phục vụ cho kháng chiến.
- Khoản tiền 100 triệu đồng thu về từ việc "bán" bài thơ "Màu tím hoa sim" đến nay được ông sử dụng thế nào?
- Sự thật tôi không có ý định "bán" Màu tím hoa sim, nhưng thấy họ giải thích thuyết phục nên mới xuôi lòng. Khoản tiền 100 triệu đồng, trừ thuế còn 90 triệu, chia "lộc" cho 10 người con hết 60 triệu đồng. Tôi giữ lại 30 triệu, phòng ốm đau lúc tuổi già.
Nhà thơ Hữu Loan tên thật là Nguyễn Hữu Loan, sinh ngày 14/6/1919 tại làng Vân Hoàn, xã Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn, Thanh Hoá. Ông đỗ tú tài Tây sau đó đi dạy học, tham gia khởi nghĩa cướp chính quyền ở huyện Nga Sơn. Khi cách mạng thành công, Hữu Loan giữ chức Uỷ viên Thông tin tuyên truyền trong Uỷ ban lâm thời của chính quyền tỉnh Thanh Hoá.
Từng công tác tại Hội nhà văn Việt Nam kiêm Chủ bút tờ Chiến Sĩ. Hữu Loan nổi tiếng với nhiều bài thơ tình lãng mạn như: Màu tím hoa sim, Tình thủ đô, Hoa lúa, Yên Mô... Các tác phẩm thi ca của Hữu Loan bị thất lạc hiện được người con trai út Nguyễn Hữu Đán sưu tầm và lưu giữ. Tuy nhiên đến thời điểm này nhà thơ Hữu Loan vẫn chưa cho ra mắt bạn đọc một tập thơ nào. Ông sống trong một ngôi nhà nhỏ tại quê hương, các con của ông đã trưởng thành và có cuộc sống tương đối ổn định.
Hữu Loan từng trải qua những năm tháng rất cơ cực, ông đi thồ đá, vợ tráng bánh bèo nuôi các con ăn học. Song cho đến bây giờ như ông nói: "Tôi đã được trả lại tất cả rồi. Hiện tôi đang sống bằng một khoản tiền 400 nghìn đồng do Hội Nhà văn Việt Nam trả hàng tháng".
(Nguồn: Lao động)
Và còn một điều kỳ lạ nữa là khi tôi quay trở lại làm gia sư dạy học cho chính cô bé sau này là vợ mình, nhà ông tham Kỳ lúc nào cũng có vài ba mươi người ăn, kẻ ở hầu hạ thế nhưng cô ta luôn giữ vali và không cho bất kỳ ai giặt quần áo của tôi, mà tự tay cô ấy giặt, là lấy rồi gấp xếp vào vali cho tôi. Cô bé càng lớn càng đẹp, một vẻ đẹp thánh thiện. Chúng tôi cưới nhau ngày 16/2/1949 thì đến ngày 29/5 cùng năm đó, vợ tôi tên là Lê Đỗ Ninh mất do chết đuối, khi tôi đang hoạt động cách mạng ở Nưa (huyện Triệu Sơn, Thanh Hoá). Đau thương này kéo dài lắm. Và cũng chính vì lẽ đó nên sau khi cô ấy mất, tôi có ý định không lấy vợ nữa. Mỗi lần nhớ tới cô ấy là tôi lại "khóc" ra một quãng của bài thơ Màu tím hoa sim hoàn chỉnh bây giờ.
- Nhưng rồi định mệnh lại đưa ông đến với một người phụ nữ khác, sống cùng ông đến ngày hôm nay và đã sinh cho ông tới 10 người con...
- Người vợ thứ hai là bà Phạm Thị Nhu, sống với tôi hơn 50 năm rồi. Bà ấy cũng là một người phụ nữ sâu sắc. Tôi vẫn chưa thể nào quên được hình ảnh của một cô bé vào mỗi buổi chiều lại lén lút đứng bên ngoài song cửa sổ nghe tôi giảng Kiều ở trường Mai Anh Tuấn. Khi gặp nhau, cô bé ấy mới nói vì đi nghe tôi giảng Kiều nên nhiều hôm để trâu ăn lúa, nên bị bắt phạt. Thì ra cô ta cũng là người có tâm hồn. Khiến tôi vẫn phải suy nghĩ rất nhiều mới có quyết định này. Rất may là sự quyết định của tôi đã không nhầm.
- Điều tâm đắc nhất trong những tác phẩm của ông là gì?
- Trong thơ tôi có niềm khát khao cháy bỏng cho một đất nước được tự do, cho dân tộc được giải phóng khỏi ách đô hộ, đó là niềm tâm đắc lớn nhất. Còn nhớ, ngày đó có một viên trung tướng phục vụ cho thực dân Pháp được giao nhiệm vụ theo dõi để ám sát tôi. Vì lý do gì thì tôi không biết, nhưng ông ấy đã tìm gặp và nói với tôi rằng, khi ông ta đọc xong bài thơ Yên Mô thì ông ấy đã từ bỏ ý định ám sát tôi. Ông ấy rất yêu bài thơ Yên Mô của tôi viết về quê hương ông. Viên trung tướng nói, mỗi một lúc ông nhớ quê là lại đọc bài Yên Mô. Mỗi lúc định giết tôi, viên tướng lại nhớ đến quê mình nên lại thôi. Nhà nghiên cứu và phê bình văn học Đặng Thai Mai cũng đã từng nói rằng, ông rất thích câu thơ cuối cùng trong bài Yên Mô: "Canh làng du kích Yên Mô/ Nửa đêm trăng mọc đỏ như cháy đồi".
Ông Đặng Thai Mai nhận xét rằng, câu thơ đã đốt cháy rực cả bài thơ lên. Nửa đêm trăng mọc, nhưng người ta cứ tưởng là du kích đánh cháy đồn địch. Cái sức sống mạnh mẽ trong mỗi tác phẩm thi ca là ở chỗ phải ghi được dấu ấn trong một thời khắc đặc biệt. Bài thơ Tình thủ đô cũng là một minh chứng xác thực cho niềm tâm đắc mà tôi vừa nói ở trên. Vào những năm 50 của thế kỷ trước, đất nước ta gặp rất nhiều khó khăn trước kẻ thù xâm lược là thực dân Pháp. Một bộ phận trí thức chán nản, muốn quay lại nội thành Hà Nội. Nhưng bài thơ Tình thủ đô đã kêu gọi được tầng lớp trí thức là giáo viên, bác sĩ vững tin ở lại với kháng chiến, phục vụ cho kháng chiến.
- Khoản tiền 100 triệu đồng thu về từ việc "bán" bài thơ "Màu tím hoa sim" đến nay được ông sử dụng thế nào?
- Sự thật tôi không có ý định "bán" Màu tím hoa sim, nhưng thấy họ giải thích thuyết phục nên mới xuôi lòng. Khoản tiền 100 triệu đồng, trừ thuế còn 90 triệu, chia "lộc" cho 10 người con hết 60 triệu đồng. Tôi giữ lại 30 triệu, phòng ốm đau lúc tuổi già.
Nhà thơ Hữu Loan tên thật là Nguyễn Hữu Loan, sinh ngày 14/6/1919 tại làng Vân Hoàn, xã Nga Lĩnh, huyện Nga Sơn, Thanh Hoá. Ông đỗ tú tài Tây sau đó đi dạy học, tham gia khởi nghĩa cướp chính quyền ở huyện Nga Sơn. Khi cách mạng thành công, Hữu Loan giữ chức Uỷ viên Thông tin tuyên truyền trong Uỷ ban lâm thời của chính quyền tỉnh Thanh Hoá.
Từng công tác tại Hội nhà văn Việt Nam kiêm Chủ bút tờ Chiến Sĩ. Hữu Loan nổi tiếng với nhiều bài thơ tình lãng mạn như: Màu tím hoa sim, Tình thủ đô, Hoa lúa, Yên Mô... Các tác phẩm thi ca của Hữu Loan bị thất lạc hiện được người con trai út Nguyễn Hữu Đán sưu tầm và lưu giữ. Tuy nhiên đến thời điểm này nhà thơ Hữu Loan vẫn chưa cho ra mắt bạn đọc một tập thơ nào. Ông sống trong một ngôi nhà nhỏ tại quê hương, các con của ông đã trưởng thành và có cuộc sống tương đối ổn định.
Hữu Loan từng trải qua những năm tháng rất cơ cực, ông đi thồ đá, vợ tráng bánh bèo nuôi các con ăn học. Song cho đến bây giờ như ông nói: "Tôi đã được trả lại tất cả rồi. Hiện tôi đang sống bằng một khoản tiền 400 nghìn đồng do Hội Nhà văn Việt Nam trả hàng tháng".
(Nguồn: Lao động)
No comments:
Post a Comment