188. THỤY KHUÊ * PHÙNG CUNG
Thụy Khuê
Phùng Cung,
Ai liều tảo mộ chiều nay
Phùng
Cung sinh ngày 18 tháng 7 năm 1928 tại Vĩnh Yên và mất ngày 9 tháng 5
năm 1997 tại Hà Nội, năm năm sau, mùa đông 2003, nhà xuất bản Văn Nghệ
California cho phát hành cuốn "Phùng Cung, truyện và thơ", do Lâm Thu
Vân ở Canada chủ trương và tập hợp những sáng tác của Phùng Cung chưa
bao giờ được xuất bản. Sách dày hơn bốn trăm trang, gồm hai phần: Phần
truyện có 10 truyện ngắn cùng phụ lục in lại "Con ngựa già của chúa
Trịnh", đã đăng trên Nhân văn số 4 (tháng 10 năm 1956) và phần thơ là
tập "Trăng ngục" gồm 35 bài thơ làm trong 12 năm tù từ 1961 đến 1972,
tại các trại biệt giam Bất bạt (Sơn tây), Yên Bái, Lào Cai, v.v...
Nói
đến Phùng Cung, chúng ta không khỏi nghĩ đến câu hỏi: "Trong thời kỳ
Nhân Văn Giai Phẩm, Phùng Cung chỉ là một người viết trẻ, vừa nổi tiếng
với truyện ngắn "Con ngựa già của chúa Trịnh", vậy tại sao ông lại phải
chịu kỷ luật khắt khe 12 năm tù như một tội nhân chính trị, khác hẳn một
số đồng nghiệp nhà văn, nhà thơ đương thời đã tham gia NhânVăn Giai
Phẩm. Tại sao?"
"Con ngựa già của chúa Trịnh" là một tác phẩm đặc
sắc, đầy tính ẩn dụ, viết về con thần mã Kim Bông của lão Nông ở Sơn
Tây, nó có sức vượt hàng nghìn dặm với cái thế "cao đầu phóng vĩ" của
nòi ngựa chiến. Bất cứ cuộc đua nào Kim Bông cũng đứng đầu. Tin đồn đến
tai chúa Trịnh, nhà chúa bèn cử người đến mua con ngựa quý. Dù luyến
tiếc vô cùng, lão Nông bắt buộc phải giao ngựa về kinh. "Kim Bông phi
như gió, trả lại đằng sau những đồi núi, cây cỏ hỗn độn của vùng Sơn
Tây. Chỉ trong nửa ngày đã về đến Thăng Long". Về kinh, Kim Bông trở
thành con vật sủng ái của chúa, chuyên kéo xe hầu nhà chúa.
Sống trong
nhung lụa, nó được ngự trong mã đài ngày ngày chỉ có việc ăn và tắm. Nó
được nhà chúa ban áo mão cân đai, đặc biệt là cái mũ cánh chuồn, như hai
chiếc lá đa che tai, che mắt, chỉ để lộ mỗi con ngươi nhìn thẳng về
phía trước. Rồi đến lúc can qua, chúa cần con ngựa chiến dũng mãnh ngày
xưa, nhưng than ôi, con thần mã đã quen thói cung đình, bao nhiêu năm bị
che tai, bịt mắt, khi tháo mũ áo ra, nó hoa mắt, đầu choàng váng, chân
không phóng được nữa. Thần mã cố sức bình sinh, dốc hết tàn lực rồi ngã
vật xuống đất, đứt ruột mà chết. Kim Bông tượng trưng cho những thành
phần tài năng của đất nước, nhưng khi đã một đời úp mặt phục vụ thế
quyền để tìm bổng lộc thì đều trở thành những con ngựa già, vô dụng.
Là
một trong những truyện ngắn hay nhất của thời kỳ Nhân Văn Giai Phẩm,
"Con ngựa già của chúa Trịnh" mang tính chất ẩn dụ tế nhị kín đáo chứ
không đả phá trực tiếp như một số những sáng tác thơ văn thời đó. Phải
chăng vì nó mà tác giả đã phải trả nợ 12 năm tù, hay vì những lý do
khác, trải dài trong thân thế, tài năng và nhân cách sống của Phùng
Cung?
Những tác phẩm in trong tuyển tập Phùng Cung truyện và
thơ, viết trong khoảng từ 57 đến 60, tức là trước khi ông bị bắt, và hơn
bốn mươi năm sau mới được đến với độc giả, nhưng chúng vẫn giữ nguyên
phong độ của những tác phẩm có sức vượt thời gian. Ðó là những đoản
thiên hiện thực viết về những kiếp người như lão Thiều trong Mạt kiếp,
sống trong cái đói triền miên, lão đục đáy cót ngô để ăn cắp, bị ngô
tưới xuống đè chết. Truyện Mạt kiếp, là một trong những truyện ngắn thê
thảm nhất về cái đói của con người.
Ngay dòng đầu, không khí bạo lực
đã hực lên trong một mạch văn có chất họa và chất nhạc, đầy khí phách và
quyết liệt : "Chiều xuống chới với trên đầu làng Chu Trần. Một con chó
vàng nhạt, hơi gầy đứng trên bờ đê nghến phía tây nam nơi mặt trời như
một chậu máu, loang vãi từ đỉnh Ba Vì hắt lại. (....)
Thình lình
tiếng tù và rúc ba hồi dữ dằn từ cầu Ðạc Ba -điếm tuần của làng- gió
tiếp âm, gom tiếng dữ trình làng. Mấy nhà gần điếm còn nghe được cả
tiếng "hự hự" của kẻ phạm pháp đang chịu đòn bằng đấm đá, lên gối vào
ngực, vào bụng. Nghe đủ tiếng động, đàn chó làng cất tiếng tập thể tru
lên một lúc rồi im bặt, quý hồ đủ tư cách chó, bởi dẫu có mỏi mõm cũng
chẳng ăn nhằm gì." ( trích Mạt kiếp, trang 27).
Ðó là khúc chó tru
dạo đầu cho thân phận lão Thiều. Thiều không phải tên của lão, lão tên
là Vị, Thiều là tên đứa cháu ngoại. Lão có một quá khứ tù mù, có thể
trước lão đã có thời chân đi giày săng đá, đầu đội mũ chào mào khố xanh,
khố đỏ thật, nhưng bây giờ lão thân tàn ma dại, vợ lão bỏ hay vợ lão
chết cũng không ai biết. Lão phải ở nhờ nhà con rể cũng đến cả chục năm
rồi. Ăn uống lão phải tự túc. Gặp lúc nhà người ta có việc gọi đến, lão
còn được miếng no. Nhiều ngày chẳng ai đoái hoài, lão đói rã họng, đành
thậm thọt vụng trộm củ khoai, bắp ngô của làng. Bị tuần bắt được trói gô
vào cột đình đánh, lão chày mặt ra chửi đổng. Lão nghĩ bụng "no nên
bụt, đói ra ma", "ngũ cốc còn ghê hơn thuốc phiện, chưa rã họng chưa
biết!", "trên đời này ông sợ nhất cái đói, ông khinh nhất cái đói, ông
căm thù nhất cái đói" (trang 31).
Lão Thiều ăn nói phạm thượng rất Chí
Phèo; Chúa, Phật lão chả coi ra gì, quỷ ma thần thánh lão cũng theo tuốt
miễn là có cái gì bỏ vào miệng. Lão làm tất tần tật, từ việc đánh thần
trùng, bốc mả, nhảy xuống ao cứu trẻ chết đuối, không từ một việc nào.
Vì cứu trẻ ở xóm đạo, lão đã được mang tên thánh Phê Đô Vị, rồi xóm đạo
hết việc, lão mon men đến chùa, giúp bà vãi đốn tre, cạp rổ cạp rá...
Lão đã trải hết các "thời", vậy mà "ngày tháng lão lại vẫn lênh đênh
trong bể trần đầy thèm khát". Cho tới cái năm ấy. Lão cố nhớ lại: "Năm
ấy là năm gì nhỉ? Nước sông Hồng vua Thuỷ dâng to hơn mọi năm nhiều.
Nước tràn lên đánh úp bờ bãi, cướp trắng hoa màu chưa đến tuổi thu
hoạch, đe dọa đê điều đe dọa cả một vùng đói kém!" (trang 56). Chẳng
biết lão Thiều có ý nói kháy đến cái đói năm nảo năm nào trùng hợp với
biến cố lịch sử nào không. Dám lắm, mồm mép lão còn nể gì ai. Nhưng dù
sao thì lão cứ nhấn mạnh vào cái năm thổ tả ấy làm cho người ta đâm nghi
ngờ, năm ấy, lão Thiều đến bước đường cùng, lão thoá mạ cái đói "Mày
đang tâm biến người thành chó, chó thành người!" (trang 67).
Lão bèn
tính một nước cờ chót, lão lội lụt vào tận đáy cót ngô của nhà Tư Tâm,
đục cót cho ngô chảy xuống , lão hứng bằng hai ống quần, nhưng không
ngờ, ngô chảy mạnh quá. "Ðói, lạnh, nặng, cả ba lực giáp công, lão không
sao ngóc đầu lên được. Chỉ trong chớp mắt lão nghỉm hẳn". Truyện Mạt
kiếp, được viết với một gịong văn lạnh lùng, châm biếm, hài hước hoá
nghịch cảnh khá tài tình và đó là nghệ thuật trình bày cái bi đát trong
thân phận con người sâu sắc nhất. Lão Thiều bị cái đói nghiền nát nhân
phẩm, lão cố ngóc đầu lên để được sống làm người, sống như người nhưng
cuối cùng lão cũng bị quật ngã, bị tiêu diệt.
Biệt tích là truyện
ông Lâm, một người thợ mộc, không thể hội nhập được với "đời sống mới".
Nói đúng ra thì người thợ đầy lương tâm và nhân cách này không thể chấp
nhận lối "ăn thật làm dối" trong cái "đời sống mới" này được. "Với phó
Lâm, tua, mộng là tuyệt kỹ, khi vào mộng, không tháo ra, chêm lại làm
đau gỗ!" (trang 155). Nhưng bây giờ ủy ban lại ra lệnh cho phó Lâm phải
làm nhanh, phải đóng bàn không có tua, có mộng gì cả, chỉ ghép lại bằng
đinh năm phân, chặt bỏ mũ, đóng ngậm là đủ. Ông chủ tịch xã ra lệnh:
"- Cứ mẫu ấy mà đóng!
(...)
-Dạ! Thưa ủy ban không làm được ạ!"
Phó Lâm cứ lẩm bẩm trong miệng những: dạ thưa, không làm được ạ, dạ thưa, khó quá ạ.... cho tới lúc bị ủy ban đuổi về.
Ít lâu sau, phó Lâm đi đâu biệt tích...
Có
người đồn rằng họ thấy phó Lâm, vai vác rìu, tay sách hòn đục đi ngược
dòng sông lên núi Tản Viên. Phó Lâm đi trên mặt nước mà như người đi
trên đường vậy. Bà Lâm được tin lạnh cả người! Ở đây ai cũng biết chuyện
đức Thánh trên đỉnh núi Tản cứ ba năm lại một lần xuống núi tìm thợ
giỏi lên sửa điện đài trên ấy. Bà Lâm chờ chồng ba năm, rồi sáu năm, rồi
chín năm... không bao giờ thấy chồng trở lại, bà chọn tháng bẩy ngày
rằm "xá tội vong nhân" làm ngày giỗ chồng
Biệt tích có những nét thần
thoại mơ hồ và đầy ẩn dụ về một thời mà sự mất tích, biệt tích của con
người có nhiều ý nghiã mờ ám, tối tăm và những giá trị đạo đức nghề
nghiệp không còn chỗ đứng trong sự lên ngôi của dốt nát, lười biếng, cẩu
thả. Phó Lâm chỉ muốn bảo tồn đạo đức nghề nghiệp của mình, nhưng không
thể được và cuối cùng phó Lâm đã phải về trời, về với thần núi Tản, để
được tự do sáng tạo, giữ trọn phong cách của một nghệ nhân chân chính.
Mộ
phách đặc sắc nhất trong mười truyện. Mộ phách viết về thời kỳ cấm ca
trù, đập đàn đáy, chôn phách, vì, người ta cho rằng: " từ nay cái nghề
ca trù càn rỡ dông dài phải tự tay đào sâu, chôn chặt, không để nấm mồ,
không luyến tiếc" (Mộ phách, trang 204).
Truyện vợ chồng kép Tư Chản
và Ðào Khuê, cả đời gắn bó với cây đàn tiếng hát, không khỏi gợi nhớ đến
Cô Tơ và Chánh Thú trong Chùa đàn của Nguyễn Tuân. Ông bà Tư Chản có
hai con, một trai một gái, chỉ mong sao cho chúng sau này lớn lên nối
tiếp nghề tổ để một đời có đủ cơm no áo ấm. "Thằng Thuyên, con trai độc
nhất, khi nó mới biết lẫy, ông đã nắn ngắm bàn tay của nó và lấy làm mãn
nguyện. Ngón tay dài, ắt hẳn dài hơn tay bố, mai ngày nhẹ nhàng nhấn,
vuốt dây tơ..." (trang 205).
Ngoài thằng con trai, Tư Chản chỉ còn
cây đàn là quý: "Ðàn này của cụ Kép thân sinh của Tư Chản để lại. Cụ kép
Ðiều đã thành người thiên cổ; khi cụ Kép chọn gỗ, thuê thợ Kim Sa đóng
cây đàn này lúc Tư Chản mới tám tuổi. Ðáy đàn bằng gỗ dâu vàng, cần đàn
bằng gỗ xâng chun, trục vặn bằng gỗ sứa. Phần trên của đáy đàn, hai
khoáy gỗ đối nhau như hai con mắt. Cây đàn lên tiếng ngân vang gần một
nửa thế kỷ.(...) Ba ngôi âm thanh của đàn đáy "Tiếng tòng! tiếng dụng!
tiếng dênh!" hợp thành đựng trong bầu đáy; nhà nghề gọi là "hồn đàn bất
tử!\
Tư Chản quan tâm đến cây đàn nằm đây như nâng giấc một người cha
ốm. Trên bàn thờ sát vách bên trái, -cố để khuất mắt người lạ- cây đàn
được nằm trong tư thế, dày, trục nghiêm trang. Trên đáy phủ tấm khăn the
màu hoàng yến, nay đã ngả màu lõi mít che bụi và che tất cả.
Ngày
nào ông cũng hai lần nâng tấm khăn, nhìn kỹ toàn cây đàn. Sóc, vọng hai
lần mỗi tháng; vào buổi tối, ông đều lau bụi, và bàn tay lại chạm khẽ
lên dây tơ, lặng nghe tiếng xa xưa vọng lại. Ông đứng ngẩn ngơ, quên,
nhớ, mông lung. Trước khi quay lưng ông không quên chắp tay thành kính
vái cây đàn đủ bốn vái." (Mộ Phách, trang 207-208)).\
Rồi thời thế thay đổi, thằng con trai lớn lên đi bộ đội cầm súng thay đàn...
Vợ
chồng Tư Chản "nhớ dồn thương góp", âm thầm lấy đêm 17 tháng 8, cúng tổ
tiễn thu. Họ chờ lúc trăng khuya, cổng đóng then cài, tìm lại nghề cũ,
tiếng đàn chen tiếng phách, nổi chìm giọng ngâm tha thiết của những đêm
xưa... "Khúc "Cung bắc" đang chơi vơi như đò chưa cập bến. Bỗng tiếng
chó sủa rộ từ phía nhà thím Vượng hắt sang. Ðàn phách im bặt. Hai linh
hồn đang rong ruổi quá khứ vụt trở về thực tại. Chó vẫn sủa dai dẳng.
Ngờ đâu tiếng tơ, tiếng phách đã leo rào, lọt đến tai người, va vào
miệng chó". (trang 210). Từ đêm đàn ca bất hạnh vụng trộm đó, hai vợ
chồng nơm nớp lo sợ, sợ người và sợ chó, sợ chó dưới dạng người.
Và
chuyện gì phải đến đã đến. Chính người con trai duy nhất của họ, đang
đợi được kết nạp vào Ðảng, đã đứng ra xử lý cây đàn, Thuyên khẳng định:
trước mắt, đồn địch là cây đàn đáy và như một chiến sĩ, Thuyên xông vào
tóm lấy cây đàn "Thuyên hăng hái nhảy tới bên cạnh bàn thờ, tóm lấy cây
đàn đáy - Cây đàn va vào vách "Cang!" một tiếng từ đàn đáy vọng ra như
tiếng kêu cứu thất thanh của một tội nhân đến giờ hành quyết" (trang
233). Kêu cứu thất thanh cũng vô ích, cây đàn không thoát khỏi định mệnh
oan trái của mình. Sau khi bị đập tan tành nó được dùng làm củi nấu
nước tắm cho cậu quý tử: "Lửa cháy vù vù dưới thùng nước tắm. Ông Chản
đang loạn bước ngoài ngõ, ngoài vườn, xéo nát cả luống rau mới cấy. Tai
ông nghe lửa réo và ngửi thấy mùi đàn cháy khen khét như một vật có
xương có thịt. Ông thảng thốt nghe rõ tiếng đàn từ trong cháy phi ra.
(...) Ông hỏi vợ có nghe tiếng gì không? (trang 234).
Và từ đấy, ông
cứ trầm trầm đi tìm lại tiếng đàn, mấy tháng sau ông mất. Bà Chản chọn
ngày cúng chồng rồi tìm miếng lụa liệm cỗ phách quý của mình, nó tên là
Kim phách. Kim phách cũng có một sử thi lẫy lừng không kém cây đàn đáy
của chồng. Bà mai táng Kim phách trong ngôi mộ chôn cạnh bờ ao.
Mộ
phách là một trong những truyện ngắn hay nhất mà chúng ta có thể đọc
được trong những thập niên gần đây. Tác phẩm ngân lên như một khúc nhạc
cổ điển ai oán, não nề, nó là bài điếu văn cho thi ca, cho âm nhạc trong
một thời mà nghệ thuật đích thực không còn chỗ đứng. Với Mộ phách,
Phùng Cung đã để lại một chứng từ, một âm giai không bao gìờ tắt với
thời gian về cái chết bức tử của cây đàn và sự thủ tiết của cỗ phách.
Trăng ngục
Như
trên đã nói, hầu hết những truyện ngắn của Phùng Cung đều được viết
trước 1960, thời kỳ chưa bị bắt, có lẽ vì vậy mà nhà văn còn giữ thái độ
tương đối ôn hoà, ông dùng rất nhiều hình thức ẩn dụ để nói lên bộ mặt
thực của đời sống hàng ngày. Tuy vậy, những vấn đề mà Phùng Cung đưa ra,
thường có tính cách xoáy sâu vào nền tảng của chế độ cực quyền, mà thực
chất dựa trên sự kiểm soát gắt gao mỗi hành động của người công dân.
Một mặt khác, tư tưởng của Phùng Cung, không chỉ khoanh vùng trong sự đả
phá chế độ chính trị mà còn mở rộng ra nhiều lãnh vực, đặc biệt trong
phạm vi chống chiến tranh, đả phá sự kích lệ lòng căm thù, đả phá chính
sách tuyên truyền giục giã con người xung trận và đó là điều ông trình
bày rất rõ, trong thơ.
Ðiểm khác biệt sâu xa giữa Phùng Cung và phần
lớn những thành viên trong phong trào Nhân Văn Giai Phẩm và tất cả các
nhà văn nhà thơ miền Bắc có lẽ là ở chỗ ấy.
Bởi hầu như tất cả đều
chấp nhận cái lý tưởng chung ở miền Bắc thời ấy là "giải phóng dân tộc",
nói đúng hơn là thống nhất đất nước bằng mọi giá xương máu; chỉ có một
vài người như Phùng Cung... ở ngoài Bắc và Trịnh Công Sơn... trong Nam,
nhìn thấy tính cách bạo tàn của chiến tranh nồi da xáo thịt và họ đã cất
tiếng thơ, tiếng hát, hát cho những xác người. Sự phản đối chiến tranh
của Trịnh Công Sơn, thời ấy được một nửa nước say mê, tôn thờ. Còn sự
phản chiến của Phùng Cung đã bị vùi sâu trong ngục thất, rất có thể là
vì nó mà tác giả đã phải trả giá 12 năm tù, hoặc vì những lý do khác,
trải dài trong thân thế, "lý lịch" của Phùng Cung.
Nhưng trước khi đi xa hơn, có lẽ chúng ta nên tìm hiểu sâu hơn về thân thế, lý lịch của Phùng Cung.
Phùng
Hà Thủ, nay cũng đã qua đời, kể lại trong bài viết "Nhà thơ Phùng Cung"
như sau: "Là con trưởng của một gia đình đông con và giàu có. Ngay từ
lúc nhỏ, bố tôi đã được cha mẹ gửi trọ học ở Sơn Tây. Ðến khi Nhật đảo
chính Pháp mới trở lại quê nhà. Khi cách mạng nổi dậy cướp chính quyền
(9-1945), vốn tuổi trẻ, năng nổ lại là người có văn hoá, bố tôi được dân
bầu làm chủ tịch liên xã Hồng Châu - Liên Châu năm mới 17 tuổi. Và tên
của địa phương do bố tôi đặt vẫn còn giữ cho đến tận bây giờ. Làm chủ
tịch được vài năm thì "phá tề", thực dân Pháp quay trở lại càn quyét tái
chiếm, bố tôi phải trốn lên chiến khu Việt Bắc và kéo theo mấy em trai
còn ít tuổi theo cùng. Tại quê nhà, gia đình họ hàng bố tôi gồm bố, mẹ
và các anh chị em khác đều bị liên lụy vì có con trốn đi làm cách
mạng.(....)
Trong suốt thời gian tham gia cách mạng, bố tôi ít có
điều kiện trở lại quê nhà (...). Một lần nhân dịp tết Nguyên đán, về
thăm gia đình, thấy cảnh tượng cửa nhà, ruộng đất bị chia cướp, phá
phách. Ông nội tôi rất lo lắng vì gia đình đang sợ bị quy là thành phần
đia chủ cường hào. Bố tôi có an ủi động viên ông: "Con đi làm cách mạng,
thoát ly đã lâu thì thế nào gia đình mình cũng được chiếu cố. Cùng lắm
là nhà nước lấy lại hết ruộng đất chia cho người nghèo hơn, bố cứ yên
tâm, đừng lo lắng gì cả, vả lại bố cũng nhiều tuổi rồi".
Nhưng thật
không ngờ, sau đợt về thăm nhà và trở lại cơ quan được ít lâu, thì bố
tôi được tin gia đình bị quy là địa chủ cường hào ngay trong đợt phát
động tiếp theo. Thực ra, ông nội tôi là người sống rất phân minh và tốt
bụng, rất quý người và không ai trong số họ đứng ra tố cáo ông cụ. Sau
khi bị tổ chức đấu tố tại địa phương mất mấy ngày, ông cụ lại tiếp tục
bị bắt đưa đi giam ở trại Cò Nỉ - Thái Nguyên.(...) Trong một lần kết
hợp đi công tác, bố tôi có tìm lên thăm và những mong gặp mặt để tiếp tế
cho cụ. Nhưng tới nơi thì được một người bạn tù già cùng lán với cụ,
chưa kịp nói câu nào vội vã dẫn bố lên khu đồi trọc phiá sau trại giam
và chỉ cho bố lùm đất mà ngọn sắn làm dấu mới héo lá. Quá bất ngờ trước
cái chết của ông cụ, bố tôi quay ngay về Hà nội, rất buồn, suy nghĩ
nhiều và tránh tiếp xúc với bên ngoài.
Năm 1956, một nhóm văn nghệ sĩ
gồm những người tham gia kháng chiến cũ tập họp nhau đứng ra thành lập
báo Nhân Văn và Giai phẩm. Ông Nguyễn Hữa Ðang đến gặp và bảo bố tôi
tham gia viết bài. Truyện Con ngựa già của chúa Trịnh đăng trên báo Nhân
Văn ngay sau đó." (Phùng Cung truyện và thơ, trang 16- 17).
Như
chúng ta đã biết, rồi báo Nhân Văn ra được sáu số thì bị đình bản. Trong
thời kỳ này, Phùng Hà Thủ kể tiếp: "Cũng trong thời gian này, bố tôi bị
đình chỉ công tác để làm kiểm thảo. Bố tôi ít đến cơ quan và chỉ viết
lách ở nhà, (...)
Một buổi sáng như thường lệ, khi mẹ tôi đi làm (lúc
đó hai anh em tôi còn nhỏ, chưa đến tuổi đi học), thì ở nhà, căn hộ mà
gia đình tôi ở bị công an mang xe ô tô đến vây bắt khám xét. Sau khi
khám nhà và tịch thu toàn bộ sách vở, tài liệu, bố tôi bị đưa ngay vào
giam ở nhà tù Hỏa Lò (Hà nội). Ðó là tháng 5, 1961. Kể từ ngày đó mãi
cho tới thời gian chuẩn bị ký hiệp định Paris, tức là 12 năm sau, bố tôi
mới được tha về nhà. Thời gian đầu bố tôi bị giam ở Hỏa lò, sau đó đưa
lên Bất Bạt (Sơn Tây), rồi Yên Bình (Yên Bái), Phong quang (Lào cai).
Bố
tôi bị bắt và giam giữ nhưng không có án mà gọi là đi tập trung cải
tạo(....) Khi bố tôi mới bị giam giữ thì nghe nói thời hạn tập trung là
ba năm, sau đó là sáu năm và chín năm hơn cũng chẳng thấy được tha
về."(trang 18).
Qua lời chứng của Phùng Hà Thủ, chúng ta được biết,
tháng 11 năm 1972, Phùng Cung được tha về cùng với hai người nữa là Ông
Vũ Thế Hùng bên công giáo và ông Doãn tỉnh trưởng Vĩnh Yên cũ. Bài viết
này làm lộ một số uẩn khúc trong cái án không có án của Phùng Cung và
làm sáng tỏ thái độ tư tưởng của Phùng Cung.
Tập thơ Trăng ngục biểu
hiệu cho chiều hướng tư tưởng đối lập đầy chất bất khuất, tác phẩm chứa
đựng những lời thơ mạnh, khẳng khái, "có chất thép", như những mũi dao
nhọn đục thủng màng lưới bủa vây nhà thơ, chọc thủng bức tường tù tội,
để lộ diện con người tự do, sẵn sàng chịu trả giá cho hành động và tư
tưởng của mình.
Vào đầu là bài Biển cả, làm tại trại biệt giam Bất Bạt năm 61. Nhà thơ ví chế độ cực quyền như biển:
Biển cả khoác triều phục đại dương
Hợm mình - uy nghi đồ sộ
Song đòi phen
Nghiêng ngửa- đáng thương (...)
Hỡi biển cả !
Diện tuy rộng
Nhưng thiếu những giác quan cần thiết
Lòng tuy xanh - sâu
Xanh sâu đầy mặn chát....
Nộ cuồng sóng vỗ
Trống trải bơ vơ
Chiều quả phụ
Bình minh vô vọng phương mờ...
Ôi! Bao yên lặng thanh cao
Ðều chìm
Trong thét gào man rợ...
Ðối diện với một thế quyền vũ bão như thế, con người là gì? Phùng Cung trả lời:
Biển cả mênh mông
Như biển cả
Trước mắt trẻ thơ
Mỗi tinh cầu
Chỉ là chấm nhỏ
Càng tối đen càng nhìn rõ xa xanh.
Lời
thơ hào hùng bầy ra trước mắt chúng ta hai thực thể: một bên là cái thế
quyền lồng lộng, khoác triều phục đại dương, mênh mông như biển cả, sẵn
sàng vùi sâu mọi sinh linh, nhưng trước mắt đứa bé, thế quyền lồng lộng
ấy là gì?
-Chẳng là gì cả, nó chỉ là con số không, bởi vì, dưới mắt
trẻ thơ: "mỗi tinh cầu chỉ là chấm nhỏ, càng tối đen, càng nhìn rõ xa
xanh".
Và đối với người lớn - người lớn ở đây là những con người bất
khuất, trải nhiều đau khổ, đã chịu những đè nén nhục nhằn, nhưng không
hề quy phục - thì họ làm gì?
Thì nhắm mắt
Thì bưng tai
Nhưng phải đâu khiếp sợ
Chỉ điếc đui vừa đủ
Để làm ngơ.
Giọng thơ hào hùng, phù hợp với tinh thần kẻ sĩ của một thời, thời Nhân Văn Giai Phẩm, nay không còn nữa
Bài
Biển cả tung ra trên trang đầu tập thơ Trăng ngục như một thách đố đầy
tính cách trí tuệ, gói gọn triết lý tương đối và trung dung của tác giả,
đòi hỏi sự hài hoà trong vũ trụ, đòi hỏi quyền sống cho những cái nhỏ,
bên cạnh cái lớn, đòi hỏi sự bình đẳng không những về mặt chính trị văn
hóa mà cả về thiên nhiên môi trường để cùng nhau hiện hữu.
Vẫn giọng
hào hùng ấy, tiếng thơ không dứt được lãng mạn của tình riêng, bài Trăng
ngục chỉ có vài câu, nhưng đã tập trung tất cả những tái tê bất hạnh
của người tù, tình tù mà chỉ có vầng trăng, chỉ còn vầng trăng, vầng
trăng thay áo, vầng trăng là người bạn tri kỷ để nhà thơ tâm sự:
Trăng qua song sắt
Trăng thăm ngục
Bỗng ta chợt tỉnh- sững sờ
Trên vai áo tù
Trăng vá lụa
Ngày xưa ơi!
Xa mãi đến bao giờ...
Hình
ảnh "trên vai áo tù trăng vá lụa" thật đẹp, thật êm ái, thật tri âm tri
kỷ, đó là sự hài hoà giữa cái lớn và cái nhỏ, giữa xa và gần, người và
trăng, biển và người như nhà thơ thầm ước, trong bài biển cả, nhưng
không thấy biển cả trả lời mà chỉ có vầng trăng đáp lại.
Phản
chiến là tư tưởng chủ yếu trong tập Trăng ngục. Phản chiến toàn diện,
bất cứ "thể loại chiến tranh" nào. Trong bài Gãi đất Phùng Cung gọi
những kẻ chủ trương chiến tranh là bọn:
Lái buôn binh lửa
Ôi! binh lửa triền miên
Tuổi trẻ gái- trai
Bị lôi đi- hết
Dờ dịt sức già gãi đất.
Chiến tranh nào cũng chôn hết những tài hoa anh hùng , chỉ để lại người già ngồi gãi đất.
Bài
Thu xa viết nên những lời tâm sự tha thiết của người chinh phụ trong
chiến tranh, Thu xa đẹp như một giấc mơ cổ điển của thời nay, với những
yếu tố, vần điệu đầy những nét thơ mộng của thời xưa:
Gió vàng đếm lá vàng rơi
Mười hai bến nước
Em ngồi quay xa
Xa quay gấp
Làn tơ vội đứt
Em nhủ lòng
Tơ đứt vì xa
Tơ vương vó ngựa quan hà
Xa in dấu ngựa
Canh gà gọi thu
Quan hà lộng gió chinh phu
Rừng thu tắm máu
Máu thu gội chiều
Tơ vàng nhỏ giọt lệ điều
Đăm đăm tay vẫn chiều chiều quay xa
Xa quay nhẹ
Làn tơ vẫn đứt
Em hỏi lòng
Tơ đứt vì đâu
Sông ngân lỡ bắc nhịp cầu
Mà người trần thế
Mang sầu thiên cung.
Có
lẽ trong các thi sĩ Việt Nam, nhất là miền Bắc, chưa ai dám đả động đến
"chính nghĩa của cuộc cách mạng giải phóng dân tộc" như thế. Đó là một
"chân lý tuyệt đối", đụng đến khói hương là trở thành "phản quốc", cho
nên chưa ai dùng hoặc dám dùng những hình ảnh đẹp và khốc liệt như "Rừng
thu tắm máu, máu thu gội chiều", để viết về một mùa thu như thế. Rồi
tất cả những chữ khác như quay xa, tại sao nhà thơ lại viết "quay xa" mà
không viết quay tơ, bởi vì chữ xa nhập nhoè nhiều ý nghĩa: xa vừa là
bánh xe của guồng tơ guồng cửi, xa còn là bánh xe chiến tranh, chiến xa,
xa còn là xa lià đứt đọan. Người chinh phụ thời mới này, không chỉ là
nạn nhân của chiến tranh, chịu hậu quả của chiến tranh như những người
chinh phụ thời xưa, mà chính nàng cũng góp phần vào bộ máy chiến tranh,
nàng cũng quay bánh chiến xa, nàng cũng "tắm máu rừng thu" như chồng. Đó
là cái nhìn táo bạo và độc đáo của nhà thơ, người đã sáng suốt nhận
thức được trách nhiệm mỗi cá nhân trong chiến tranh, nam cũng như nữ.
Phùng Cung không chỉ dừng lại ở đấy, để truy lùng thủ phạm chiến tranh,
ông còn đi sâu hơn, ông đã đụng đến cả những biểu tượng được tôn sùng
nhất:
Cờ máu rợp trời
Lợm gíó!
Tiếng quốc thiều tăng âm
Cực đại thét gào
...."Thề phanh thây uống máu!..."
Ta lùng trong kho nhớ
Nhẩm biên niên sử
Xin hỏi loài người
Có quốc thiều nào man rợ thế không.
Bên
cạnh những lời hỏi tội tầy đình như vậy, là những lời thơ trữ tình đẫm
lệ, bài Quê hương, đưa ra một hình ảnh đất nước tang thương đầy máu và
nước mắt:
Quê hương ơi!
Ðường quan lầy nước mắt
Ðiệu sáo hết du dương
Mây chìm
Gió ngủ (...)
Sông sâu bặt tiếng gọi đò
Chim hãy cùng ta
Gọi cành xanh ngóc dậy
Để một lần
Quê hương thấy lại quê hương
Ráng chiều ngụy tạo bình minh
Lá thuyền tình
Chỉ lênh đênh giữa dòng.
Trên
mảnh đất quê hương này, dưới mắt nhà thơ, chiến tranh không chỉ là
những tiếng thúc giục giã lên đường, không chỉ là những tiếng hô thắng
trận, mà đằng sau tất cả những cờ xí rợp rã đó là bộ mặt kinh hoàng của
thần chết:
"Phát lệnh chia bôi...
Ngọn gió giao liên
Gửi tiếng xa gần
Trống phát dẫn
Gia nô thần chết cầm dùi
Dấm dúi vùi nông
Chiều bạc mệnh
Khói hương ơi!
Ðền miếu tan rồi!...
Năm tận tháng cùng
Hòng hõng mong thư tuyến lửa".
Những
hình ảnh chết chóc cứ sừng sững và rũ liệt đi vào lòng người đọc như
thế. Những cái chết "không trẻ ", "không mới" như hình ảnh "người chết
hai lần" của Trịnh Công Sơn (ra đời cùng thời với thơ Phùng Cung, nhưng ở
phía Nam). Thơ Phùng cổ điển hơn lời ca của Trịnh, có lẽ vì Phùng lớn
tuổi hơn, vì không cùng một hệ suy tưởng, cho nên thơ Phùng đạo đức "gia
tiên" hơn nhạc Trịnh. Tuy cùng viết về một nỗi đau, nhưng Bắc Nam giọng
điệu có khác, Phùng Cung viết:
Bấm dốt ngón tay (....)
Nhớ người thiên cổ
Cạn máu kho thiêng
Kho thiêng rạn vỡ
Tiếng gia tiên
Thổn thức dưới mồ
Những lúc chim về
Tím lịm chân mây
Ai liều tảo mộ chiều nay
Mà hương tảo mộ bay đầy hoàng hôn.
Và
để tạm biệt Phùng Cung, chúng tôi gửi đến các bạn bài thơ Vay tuổi, như
một điếu văn những linh hồn trẻ đã mãi mãi nằm xuống, và cũng để khâm
liệm tâm hồn những bà mẹ già trong đêm tối bạc đầu vì nhớ thương, hương
khói:
Con vừa mười sáu tuổi đời
Nửa đêm vay tuổi lấy người chiến tranh
Ðèn con tiễn đến cổng đình
Quay về hụt bước ngỡ mình chiêm bao
Khe Sanh- Dốc miếu là đâu
Vắng con nhớ đến bạc đầu cô đơn
Máu chiều gội đỏ hoàng hôn
Nghiã trang mồ giả, nắm xương không mồ
Ðồng chiều gió tím mấp mô
Nén hương đẹn khói, mấy mùa khóc vay.
Dưới mồ, dường như có tiếng Phùng Cung nhắn lại: thanh niên ơi! Đừng bao giờ chọn giải pháp chiến tranh cho đất nước này.
Thụy Khuê, tháng 3, 2004
No comments:
Post a Comment