187. PHÙNG HÀ PHỦ * PHÙNG CUNG
Phùng Hà Phủ
Nhà thơ Phùng Cung
Bố tôi, nhà
thơ Phùng Cung, sinh ngày 18 tháng 7. 1928 (Mậu Thìn) tại Kim Lân, Hồng
Châu, Yên Lạc, Vĩnh Yên. Là con trưởng của một gia đình đông con và giàu
có, ngay từ lúc nhỏ, bố tôi đã được cha mẹ gửi trọ học ở Sơn Tây. Ðến
khi Nhật đảo chính Pháp mới trở lại quê nhà. Khi cách mạng nổi dậy cướp
chính quyền (9-1945), vốn trẻ tuổi, năng nổ lại là người có văn hóa, bố
tôi được dân bầu làm chủ tịch liên xã Hồng Châu - Liên Châu năm mới 17
tuổi. Và tên của địa phương do bố tôi đặt vẫn giữ cho đến tận bây giờ.
Làm chủ tịch được vài năm thì "phá tề", thực dân Pháp quay trở lại càn
quét tái chiếm, bố tôi phải trốn lên chiến khu Việt Bắc và kéo theo mấy
em trai còn ít tuổi theo cùng. Tại quê nhà, gia đình họ hàng bố tôi gồm
bố, mẹ và các anh chị em khác đều bị liên lụy vì có con trốn đi làm cách
mạng.
Khi lên chiến khu, bố tôi làm công tác thông tin ở liên
khu 10 Việt Bắc, cơ quan thông tin của ông Nguyễn Tấn Gi Trọng (bác sĩ
Trọng sau này làm công tác chuyên môn tại trường Ðại học Y Dược Hà Nội
và là người giúp mẹ tôi theo học lớp dược tá khi hòa bình lập lại). Sau
một thời gian làm tại liên khu 10, bố tôi mới chuyển sang an toàn khu và
làm công tác văn nghệ, cùng sống và làm việc với các ông Ngô Tất Tố,
Phan Khôi, Nguyễn Tuân, Nguyễn Công Hoan, Tô Hoài,... cho đến khi hòa
bình lập lại (1954) thì cùng với cơ quan Hội văn nghệ về tiếp quản thủ
đô Hà Nội.
Trong suốt thời gian tham gia cách mạng, bố tôi ít có
điều kiện trở lại quê nhà. Khi chính phủ phát động phong trào "cải cách
ruộng đất", bố tôi cũng như bao anh em khác cùng cơ quan phải về các địa
phương khác nhau để tham gia phong trào. Một lần nhân dịp Tết Nguyên
đán về thăm gia đình, thấy cảnh tượng cửa nhà, ruộng đất bị chia cướp,
phá phách. Ông nội tôi rất lo lắng vì gia đình sợ đang bị quy là thành
phần địa chủ cường hào. Bố tôi có an ủi động viên ông: "Con đi làm cách
mạng, thoát ly đã lâu thì thế nào gia đình mình cũng được chiếu cố. Cùng
lắm là nhà nước lấy lại hết ruộng đất chia cho người nghèo hơn, bố cứ
an tâm, đừng lo lắng gì, vả lại bố cũng nhiều tuổi rồi". Nhưng thật
không ngờ, sau đợt về thăm nhà và trở lại cơ quan được ít lâu, thì bố
tôi được tin gia đình mình bị quy là địa chủ cường hào ngay trong đợt
phát động tiếp theo. Thực ra ông nội tôi là người sống rất phân minh và
tốt bụng, rất quý người làm và không ai trong số họ đứng ra tố cáo ông
cụ. Sau khi bị tổ chức đấu tố tại địa phương mất mấy ngày, ông cụ lại
tiếp tục bị bắt đưa đi giam ở trại Cò Nỉ - Thái Nguyên. Khi bố tôi hay
tin, bố rất nóng lòng chuyện nhà và muốn quay về xem sự thể ra sao.
Những bạn bè thân trong cơ quan biết chuyện như ông Tô Hoài (lúc này
đang phụ trách công tác Ðảng - Ðoàn của Cơ quan văn nghệ) đều khuyên nên
thật bình tĩnh, chờ Ðảng sẽ sửa sai. Trong một lần kết hợp đi công tác,
bố tôi có tìm lên thăm và những mong gặp mặt để tiếp tế cho cụ. Nhưng
tới nơi thì được một người bạn tù già cùng lán với cụ, chưa kịp nói câu
nào vội vã dẫn bố lên khu đồi trọc phía sau trại giam và chỉ cho bố lùm
đất mà ngọn sắn làm dấu mới héo lá. Quá bất ngờ trước cái chết của cụ,
bố tôi quay ngay về Hà Nội, bố rất buồn, suy nghĩ nhiều và tránh mọi sự
tiếp xúc với bên ngoài.
Năm 1956, một nhóm văn nghệ sỹ gồm những
người tham gia kháng chiến cũ tập họp nhau đứng ra thành lập báo Nhân
Văn và Giai Phẩm. Ông Nguyễn Hữu Ðang đến gặp và bảo bố tôi tham gia
viết bài. Truyện Con ngựa già của Chúa Trịnh đăng trên báo Nhân Văn ngay
sau đó. Thời gian này mẹ tôi thấy mọi người xung quanh bàn tán với nhau
rằng tờ báo Nhân Văn "có vấn đề". Và chỉ một thời gian ngắn sau khi có
bài viết của bố tôi thì tờ báo bị cấm xuất bản và lưu hành.
Cũng
khoảng thời gian này, bố tôi bị đình chỉ công tác để làm kiểm thảo. Bố
tôi ít đến cơ quan và chỉ viết ở nhà, một số bạn thân của bố tôi thường
lui tới như Trần Dần, Hoàng Cầm, Ðặng Ðình Hưng...
Một buổi sáng
như thường lệ, khi mẹ tôi đi làm (lúc đó hai anh em tôi còn nhỏ, chưa
đến tuổi đi học), thì ở nhà, căn hộ mà gia đình tôi ở bị công an mang xe
ô tô đến vây bắt khám xét. Sau khi khám nhà và tịch thu toàn bộ sách
vở, tài liệu, bố tôi bị đưa ngay vào giam ở nhà tù Hỏa Lò (Hà Nội). Ðó
là tháng 5. 1961. Kể từ ngày đó mãi cho đến thời gian chuẩn bị ký hiệp
định Paris (1973), tức là 12 năm sau, bố tôi mới được tha về nhà. Thời
gian đầu bố tôi bị giam ở Hỏa Lò (Hà Nội), sau đó đưa lên Bất Bạt (Sơn
Tây), rồi Yên Bình (Yên Bái), Phong Quang (Lào Cai).
Bố tôi bị
bắt và giam giữ nhưng không có án mà gọi là đi tập trung cải tạo. Thời
gian đầu, mẹ tôi vô cùng hoang mang, chạy khắp nơi từ Bộ công an, sang
Viện Kiểm sát tối cao rồi Tòa án để hỏi xem bố tôi bị bắt vì tội gì. Tới
nơi nào cũng chỉ nghe trả lời là bố tôi có tội với Ðảng, tội phản
động... là phần tử chống đối lãnh đạo, cần phải tập trung để cải tạo tư
tưởng. Khi bố tôi mới bị giam giữ thì nghe nói thời hạn tập trung là 3
năm, sau đó là 6 năm rồi 9 năm hơn cũng chẳng thấy được tha về. Mỗi lần
mẹ lên thăm bố, gặp nhau khoảng nửa tiếng đồng hồ, chưa kịp nói chuyện
gì thì đã hết giờ quy định. Và lần nào mẹ tôi cũng được nghe các giám
thị trại giam nói rằng bố cải tạo chưa tiến bộ, ngoan cố, không gương
mẫu... Sau này lúc mãn hạn tù, mẹ tôi mới biết bố tôi luôn là đối tượng
bị giam cấm cố trong xà lim, bị hạn chế tối đa tiếp xúc với thân nhân.
Nhớ
lại theo bố tôi kể "khi xảy ra chuyện", buổi sáng đó bố tôi được triệu
tập tới cơ quan để họp. Ðến nơi thấy mọi người xung quanh đều có ý lảng
tránh mình, thậm chí không dám mời nhau uống chén nước. Ngay cả những
bạn rất thân và thường lui tới nhà cũng tìm cách lánh mặt. Ngay sau đó
bố tôi bị đem ra kiểm điểm trước cuộc họp, mà thực chất gần như một buổi
đấu tố thời "cải cách" của Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật (gồm cả
đại diện bên Văn nghệ quân đội). Chủ trì cuộc đấu tố gồm các ông Võ
Hồng Cương, Nguyễn Ðình Thi, Chế Lan Viên, Hoài Thanh... Cảm tưởng đau
xót và ngỡ ngàng nhất đối với bố tôi là những bạn thường ngày chơi thân
với bố tôi như vậy đều tham gia vào việc "đấu tố". Ngày hôm đó, ông Trần
Dần là người đứng lên "tố" để hai ông Lê Ðạt và Hoàng Cầm làm chứng
dối. Tội chính mà bố tôi bị "tố" là mang lòng hận thù cách mạng sau cái
chết của bố mình. Lôi kéo người khác cùng về hùa để lăng mạ lãnh đạo và
còn viết nhiều chuyện chưa in khác - Tất cả nội dung đều tập trung vào
lãnh tụ và Ðảng cộng sản như: Dạ ký, Chiếc mũ lông, Quản thổi, Kép
Nghế... Việc bố tôi bị bắt sau đó là do tham gia làm báo Nhân Văn nhưng
theo mẹ tôi còn nhiều lý do khác nữa.
Hồi thanh niên và đang còn
công tác, bố tôi là người nhanh nhẹn, tốt bụng và hay giúp đỡ mọi người.
Trước khi bị bắt và khai trừ khỏi Ðảng, bố tôi làm thư ký công đoàn của
Hội, là đối tượng được cơ quan đề nghị sang học tại Liên Xô. Tuy nhiên,
bố tôi là người trực tính, không ưa sự giả dối. Vì vậy bố tôi thường
châm chọc, đả kích những người xu nịnh, luồn cúi cấp trên cầu lợi. Thời
gian trước khi bố mẹ tôi lấy nhau, bố tôi có báo cáo việc này với cơ
quan. Hội cử các ông Kim Lân, Hoàng Thượng Khanh, Lều Thọ Hợp... về quê
mẹ tôi để thẩm tra lý lịch gia đình (mẹ tôi và bố tôi cùng quê hương
nhưng khác xã). Khi về đến nơi điều tra, họ cho rằng nhà của mẹ tôi tuy
không là địa chủ nhưng cũng thuộc thành phần của giai cấp phong kiến,
không tiến bộ nên không đồng ý. Riêng việc này bố tôi không chấp hành ý
kiến trên và đám cưới vẫn được tổ chức sau đó ở Hà Nội (đám cưới do bác
Phan Khôi làm chủ hôn).
Nghe bố tôi kể lại, khi mới vào trại, mặc
dù là đối tượng bị kiên giam biệt lập, nhưng khi biết bố tôi là tác giả
của Con ngựa già... thì rất nhiều trại viên tìm đến thăm hỏi, xem mặt,
động viên, giúp đỡ. Nhất là thời gian đau ốm, bố tôi được các bạn tù
chăm sóc rất tận tình, vì thế mà bố tôi mới còn sống trở về. Bởi trong
tù bố tôi bị mắc nhiều chứng bịnh hiểm nghèo như lao phổi, viêm loét dạ
dày mãn tính...
Suốt thời gian bố tôi bị giam giữ, mẹ tôi đã phải
sống những năm tháng vô cùng căng thẳng về tinh thần và khốn đốn về vật
chất. Một mình phải nuôi hai con còn nhỏ dại (đứa lớn mới 4 tuổi) với
đồng lương ít ỏi. Thêm vào đó là từng ngày ngóng đợi tin của chồng và cố
gắng làm sao để chi tiêu thật dè xẻn. Tích cóp mọi thứ, từ cái kim sợi
chỉ đến từng hộp lương khô để chờ dịp lên tiếp tế cho bố tôi. Cũng rất
may, trong thời gian này, các anh chị em cùng bộ môn với mẹ tôi (Trường
Ðại học Dược khoa) họ đều thông cảm cho hoàn cảnh của mẹ tôi và giúp đỡ
mẹ tôi nhiều để mẹ tôi vượt qua được.
Tháng 11. 1972, vẫn đang
chiến tranh, mẹ tôi theo cơ quan sơ tán về Hà Bắc thì hay tin bố tôi đã
được tha về. Mẹ tôi không thể nào tin nổi vì nghĩ rằng bố tôi là đối
tượng biệt giam, sao lại được tha về trong lúc chiến tranh ác liệt như
vậy. Mẹ tôi vội xin phép cơ quan để về gặp bố tôi, khi nhìn thấy bố tôi
gầy yếu, mẹ tôi xúc động rơi nước mắt. Bố tôi được tha về cùng với hai
người khác, họ đều là đối tượng đặc biệt như bác Vũ Thế Hùng bên công
giáo và ông Doãn tỉnh trưởng Vĩnh Yên cũ.
Sau những mừng vui sum
họp của bao nhiêu năm cách biệt là những nỗi lo toan vất vả mới của
chuyện cơm áo đời thường đè nặng lên gia đình chúng tôi. Bố tôi được tha
về nhưng không có công ăn việc làm gì, hơn nữa bố tôi cũng còn rất yếu.
Ðang lúc túng quẫn, bố tôi có gặp lại người bạn cũ đang mở một xưởng cơ
khí nhỏ. Bác ấy tới thăm và mời bố tôi đến làm cùng. Nhưng thời gian
làm ở đó cũng chẳng được bao lâu vì bố tôi từ khi ở trại về mang theo
nhiều thứ bệnh, nhất là bệnh dạ dày liên tục hành hạ bố tôi. Gia đình
trở nên túng thiếu vô cùng. Những thiếu thốn về vật chất đã đành nhưng
khổ tâm nhất là từ khi bố tôi được tha về, chẳng có quan hệ với ai cũng
như chẳng ai dám quan hệ với bố tôi. Thế mà không tuần nào, tháng nào là
không có cán bộ của công an đến nhà thẩm vấn: hôm nay đi những đâu? gặp
những ai?... đến mức nhiều khi mẹ tôi nói với bố tôi: "Thà họ cứ bắt
quách anh trở lại còn hơn, chứ thế này em thấy căng thẳng quá, không
sống nổi." Thậm chí có lần họ chỉ ngồi với bố tôi hàng giờ, thỉnh thoảng
mới hỏi dăm ba câu, ngồi chán thì họ về.
Mẹ tôi nhớ có nhiều
hôm, họ đến nhà và sau khi quay ra còn đưa cho bố tôi mảnh giấy hẹn,
buộc bố tôi buổi tối phải đến gặp lãnh đạo của họ đặt tại các trụ sở
khác nhau ở Hà Nội. Những lần như vậy mẹ tôi rất lo và sợ, có lần phải
cho cả tôi đi theo cùng với bố tôi. Ðến nơi mẹ tôi và tôi đứng đợi ngoài
cổng để một mình bố tôi vào. Chờ lâu quá, trời lại khuya mà vẫn không
thấy bố tôi ra, mẹ tôi bảo tôi chạy vào gọi bố. Hai ba lần như vậy cho
đến khuya bố tôi mới được ra về. Mẹ tôi lo lắng hỏi lại bố tôi xem họ
hỏi những gì thì chỉ thấy bố tôi nói: "Họ hỏi đủ thứ chuyện, nhưng anh
chẳng ngại. Anh có đủ kinh nghiệm khi phải đối đầu với bọn họ".
Từ
ngày ra tù, bố tôi sống như người bị câm, hầu như không quan hệ với ai
ngay trong các bạn văn quen biết cũ. Những người trực tiếp "tố" bố tôi
ngày xưa đều cảm thấy hối hận về việc làm của mình và xin lỗi bố tôi. Có
một lần nhân dịp bố tôi và bác Phùng Quán đứng ra tổ chức lễ mừng "sống
dai" cho ông Nguyễn Hữu Ðang (ông Ðang là cán bộ văn nghệ, ông cũng bị
giam giữ 18 năm - Lúc này ông đã 81 tuổi), bạn bè văn nghệ đến rất đông.
Nhiều người quen biết cũ nghe tiếng tìm đến tham dự, ông Lê Ðạt cũng
đến đứng cạnh và nói với bố tôi: "Cung ơi, dù có thế nào tao vẫn là bạn
mày, tao có lỗi với mày. Có gì, mày cứ gọi tao ra mà mắng". Từ đó về
sau, mối quan hệ của bố tôi với các bạn cũ có phần cởi mở hơn. Và mãi
sau nầy, ông Hoàng Cầm cũng tìm trở lại nhà và muốn nối lại thân thiết
với bố tôi như xưa. Còn ông Nguyễn Hữu Ðang, với gia đình bố tôi là chỗ
để cho ông lui tới thường xuyên, ông không có gia đình và ông coi bố mẹ
tôi như anh em ruột thịt trong nhà.
Từ khi bị kỷ luật, bị đình
chỉ công tác rồi bị bắt đi tù cho đến lúc được tha về, bố tôi không hề
được nhận bất cứ trợ cấp nào. Mãi đến năm 1990 tức là 30 năm sau, bố tôi
mới có quyết định phục hồi của Ban tổ chức Trung ương Ðảng để làm lại
sổ lương (hai người chung một quyết định là bố tôi và ông Ðang). Lúc
đầu, bố tôi cương quyết không nhận chế độ lương bổng này, nhưng rồi có
sự động viên của bác Phùng Quán và một số cán bộ khác của Hội, bố tôi
mới chịu nhận. Mức lương trợ cấp cố định hàng tháng là 35.000 đồng, với
số tiền ấy đủ để đong thêm vài chục cân gạo. Và đúng sau thời kỳ "đổi
mới" này, công an Hà Nội mặc dù vẫn thường xuyên đến thăm hỏi nhưng với
tinh thần và thái độ thì cởi mở, xem ra thân thiện hơn trước.
Vẫn
theo bố tôi thì tập thơ Xem đêm là tuyển chọn những bài được sáng tác
vào các thời điểm khác nhau, trong đó có cả thời gian bố tôi ở trong tù.
Bố
tôi là người rất có nghị lực. Bố tôi thường nói với mẹ tôi: "Nếu Giời
cho sống thì còn phải làm việc nhiều hơn nữa và còn rất nhiều việc phải
làm". Bố tôi luôn luôn chỉ sợ phải bỏ dở công việc của mình. Ngoài mấy
trăm bài thơ và tập truyện viết lại, mẹ tôi thấy bố tôi nung nấu và đang
bắt tay vào viết tập hồi ký. Tập thơ Xem đêm được in ra có phần cổ vũ,
trợ giúp không nhỏ về tài chính của ông Ðang và sự nhiệt tình của ông
Quán. Ngoài ra cũng phải kể đến sự quý trọng và can thiệp trong khâu
kiểm duyệt bài của nhà thơ Quang Huy, giám đốc nhà xuất bản đồng thời là
người viết tựa cho cuốn sách này.
Bố tôi là người trực tính và
luôn làm việc vì cái tâm. Có lần bố tôi đã từng trực tiếp nói với ông
Phạm Chuyên, giám đốc công an Hà Nội khi hai người gặp nhau: "Ông là cán
bộ lãnh đạo của ngành công an, nên mỗi khi quyết định làm việc gì, ông
hãy hỏi lương tâm mình trước rồi hãy làm...". Ðôi lúc nghĩ về thời cuộc,
bố tôi cho rằng còn quá nhiều điều không bằng lòng. Bố tôi tin rằng sẽ
vẫn còn tiếp diễn nhiều sự bất công, không phải chỉ một mình bố tôi hứng
chịu mà nhiều người khác còn đau thương và oan khuất hơn nhiều.
Suốt
cuộc đời, bố tôi phải trải qua nhiều nỗi truân chuyên lao khổ, nhưng
bằng nghị lực, bố tôi vẫn sống để đi tìm cái đẹp. Cho đến khi từ giã cõi
đời, mặc dù số phận đã không mang đến cho bố tôi nhiều may mắn nhưng bố
tôi luôn tự hào rằng đã không làm điều gì phải hổ thẹn với lương tâm
của mình.
(Nhân ngày giỗ đầu nhà thơ Phùng Cung)
Hà Nội, ngày 9 tháng 5, 1998
No comments:
Post a Comment