253. TÁC PHẨM TRƯƠNG TỬU
GIAI PHẨM MÙA THU 1956 * TẬP I
Trương Tửu
Bệnh sùng bái cá nhân trong giới lãnh đạo văn nghệ
“Phê
bình và tự phê bình đúng nguyên tắc và công khai là con đường đúng
nhất để củng cố Đảng hơn nữa, để nhanh chóng khắc phục khuyết điểm…
… Quần chúng càng tham gia đông đảo vào cuộc đấu tranh chống các khuyết điểm thì khuyết điểm lại càng bớt đi.
Mở rộng hơn nữa phê bình và tự phê bình, dũng cảm phát hiệt khuyết
điểm trong tất cả các lĩnh vực xây dựng kinh tế và văn hoá”.
(Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương, Đảng Cộng sản Liên Xô tại Đại hội Đảng lần thứ XX, Khơ-rút-sốp trình bày)
Hiện
giờ, chính phủ và Đảng lãnh đạo đang phát động và tổ chức một phong
trào quần chúng rộng rãi phê bình xây dựng chính sách và cán bộ ở mọi
địa hạt chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá v.v… Các đại hội đại biểu
nhân dân ở các khu phố Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Thanh Hoá; hội nghị
tổng kết đợt 5 cải cách ruộng đất, hội nghị mở rộng của Mặt trận Tổ
quốc ở các tỉnh; hội nghị học tập văn kiện của Đại hội Đảng Cộng sản
Liên Xô lần thứ XX ở các cấp bộ Đảng; những cuộc kiểm điểm công tác ở
các cơ quan nhà nước, phong trào học tập như Hồ Chủ tịch gửi nông dân ở
các thôn xã; các buổi họp phê bình ban lãnh đạo ở các nhà máy và công
trường; các buổi chuẩn bị đại hội văn nghệ toàn quốc; các cuộc thảo
luận chính trị ở nhiều trại hè giáo viên v.v… đã cổ võ và phát huy đến
cao độ tự do dân chủ, tự do tư tưởng, trong nhân dân cũng như trong
hàng ngũ cán bộ.
Phong trào phê bình và tự phê bình có
tính cách quần chúng ấy chứng tỏ rằng: Chính phủ ta thực sự là của nhân
dân, Đảng Lao động thực sự là một đảng cách mạng chân chính, nhân dân
dưới chế độ dân chủ cộng hoà thực sự là chủ nhân ông đất nước. Chính
phủ và Đảng không sợ sự thực, muốn biết sự thực, cần nắm vững sự thực,
yêu cầu nhân dân nói thực. Và nhân dân đã nói thực.
Sự thực ấy là gì?
Sự
thực là: chế độ dân chủ nhân dân của chúng ta, trên đường phát triển,
hiện đang vướng phải những mâu thuẫn khá gay go đòi hỏi một giải quyết
hợp lý và cấp bách. Những lực lượng sản xuất dân tộc, được cách mạng
giải phóng thoát khỏi ách đế quốc và phong kiến, đang vấp phải, trong
bộ máy quan hệ sản xuất mới, những chính sách, những tổ chức, những tác
phong lãnh đạo, những cán bộ chấp hành cản đường phát triển của nó.
Những sai lầm nghiêm trọng trong đợt 5 cải cách ruộng đất cản trở lực
lượng sản xuất của nông thôn, những khuyết điểm nhiều mặt của mậu dịch
quốc doanh, của chính sách thuế khoá cản trở lực lượng sản xuất của
thành thị; những tệ lậu của bộ phận lãnh đạo văn hoá cản trở sức phát
triển của mọi lực lượng sáng tạo tinh thần (khoa học, nghệ thuật v.v…).
Những
lực lượng sản xuất của chế độ dân chủ nhân dân đang yêu cầu chỉnh lý
cấp bách những quan hệ sản xuất mới để tự do tiến triển: đó là ý nghĩa
cơ bản của phong trào quần chúng phê bình rầm rộ đang diễn ra chung
quanh chúng ta.
Chính phủ và Đảng phát động phong trào
ấy là có ý muốn tạo ra điều kiện tốt để nhận thức đúng nội dung của mâu
thuẫn nói trên một cách cụ thể và toàn diện. Có nhận thức đúng mới giải
quyết đúng. Chính phủ và Trung ương Đảng đang chăm chú lắng nghe tiếng
nói của nhân dân…
Cho nên, lúc này hơn lúc nào hết,
nhiệm vụ của mỗi người công dân chúng ta là nói thực, “dũng cảm phát
hiện khuyết điểm ở mọi lãnh vực xây dựng kinh tế và văn hoá”, nhiệt
liệt tham gia cuộc đấu tranh chống các khuyết điểm ấy, để giúp các nhà
lãnh đạo nhìn rõ toàn bộ sự thực. Trong cuộc đấu tranh này, riêng người
trí thức phải can đảm tự gánh lấy một trách nhiệm xứng với cương vị xã
hội của mình. Thẳng thắn phê bình những sai lầm thiếu sót của lãnh
đạo, của chính sách, của cán bộ là thiết thực góp sức vào sự nghiệp hoàn
thành Cách mạng tháng Tám, giữ vững hoà bình, củng cố miền Bắc, thực
hiện thống nhất trên cơ sở độc lập và dân chủ thực sự. Lúc này hơn lúc
nào hết, nói thực, nói thẳng, nói hết là cái thước đo lòng trung thành
của người trí thức đối với chế độ dân chủ nhân dân. Không mạnh bạo phát
hiện khuyết điểm và đề nghị sửa chữa là không tin chế độ, không tin
Đảng, là tự mình tước bỏ cái nhân cách trí thức của mình, là phụ cái
lòng kỳ vọng của nhân dân và chính phủ vẫn đặt vào giới mình.
Nghĩ
như vậy nên tôi viết bài này, nối gót nhà văn lão thành dũng cảm Phan
Khôi, góp ý kiến phê bình lãnh đạo văn nghệ, đặc biệt sự sùng bái cá
nhân trong giới lãnh đạo văn nghệ.
Sùng bái cá nhân là
một bệnh phổ biến trong giới lãnh đạo văn nghệ nước ta và đã tác hại
khác nhiều đến toàn bộ sinh hoạt văn nghệ. Tôi nói đó là một bệnh phổ
biến trong hàng ngũ lãnh đạo văn nghệ. Tôi không nói đó là bệnh của văn
nghệ sĩ; vì rằng, hôm qua cũng như hôm nay, người văn nghệ sĩ tự trọng
không bao giờ thừa nhận sự sùng bái cá nhân. Nghệ thuật là sáng tạo,
là tự do. Sùng bái cá nhân là phục tùng mù quáng, là nô lệ. Hai thứ đó
như nước với lửa; có cái này thì không có cái kia được.
Bởi
vậy, không phải đợi đến sau Đại hội 20 Đảng Cộng sản Liên Xô, văn nghệ
sĩ Việt Nam mới chống sùng bái cá nhân. Ai cũng còn nhớ, năm 1948, cố
hoạ sĩ cố Tô Ngọc Vân đã tranh luận khá gay gắt với ông Trường Chinh về
vấn đề: quần chúng phê bình nghệ thuật. Ngòi bút tranh luận của Tô Ngọc
Vân chứng tỏ một khối óc độc lập, một tâm hồn có cá tính không vì uy
quyền của lãnh tụ này hay lãnh tụ khác mà thủ tiêu ý kiến riêng của
mình. Cũng năm 1948, nhân đi công tác qua Thanh Hoá, ông Trường Chinh
có đến câu lạc bộ của Đoàn Văn nghệ Kháng chiến Liên Khu IV nói chuyện
với anh chị em văn nghệ về chủ nghĩa Mác và vấn đề văn hoá Việt Nam.
Trong bài nói, có đoạn ông Trường Chinh lớn tiếng mạt sát hoạ phái lập
thể chủ nghĩa (của Picasso). Ông cho hoạ phái ấy, cũng như các phái
nghệ thuật Đa đa, Dã thú v.v…, chỉ là những cái nấm độc mọc trên trạng
thái thối tha của chế độ tư bản chủ nghĩa ở Âu châu đầu thế kỷ 20. Sau
buổi nói chuyện, anh em hoạ sĩ mạn đàm với nhau và nhất trí cho rằng
ông Trường Chinh vì không am hiểu chuyên môn hội hoạ nên đã nhận định
sai lầm về chủ nghĩa lập thể. Hoạ sĩ Sỹ Ngọc có viết một bài nói về chủ
nghĩa lập thể trong tạp chí Sáng tạo số 4 (cơ quan ngôn luận của Đoàn
Văn nghệ Kháng chiến Liên Khu IV) để gián tiếp bác ý kiến của ông
Trường Chinh.
Ở đây, không nói đến chỗ sai hay đúng của
các ý kiến Tô Ngọc Vân, Sỹ Ngọc; chỉ một việc tự do và mạnh bạo phát
biểu quan điểm riêng của mình trái hẳn với quan điểm của một nhà lãnh tụ
cũng đủ cho ta thấy rõ các bạn đó không có thói quen sùng bái cá nhân,
hễ lãnh tụ đã đề ra một ý kiến gì là phải nhắm mắt tuân theo, ca tụng.
Đối
với các nhà lãnh đạo bậc dưới, ở các khu hoặc tỉnh, anh em văn nghệ sĩ
cũng thường xuyên giữ thái độ tự do tư tưởng như vậy. Tôi còn nhớ,
trong Khu IV, nhiều lần văn nghệ sĩ đã xung đột kịch liệt với thiếu
tướng Nguyễn Sơn lúc đó (1948-1949) làm Khu trưởng Liên Khu IV. Nhà
quân sự này có tham vọng lãnh đạo cả văn nghệ trong phạm vi đất đai
thuộc quyền mình. Vì thiếu học thức chuyên môn về nghệ thuật, Nguyễn
Sơn đã phải dùng đến uy quyền Khu trưởng để đàn áp tư tưởng của văn nghệ
sĩ, bắt anh em phải theo ý kiến chủ quan của ông, gây ra hết mâu thuẫn
này đến mâu thuẫn khác giữa ông và văn nghệ sĩ suốt mấy năm trời, làm
hại khá nhiều đến phong trào văn nghệ kháng chiến Liên Khu IV. Một lần,
đoàn kịch Tiền tuyến, do một số kịch sĩ, hoạ sĩ và diễn viên phụ trách
và công tác trong quân đội Liên Khu IV, diễn vở Dứt áo của Chu Ngọc.
Kịch vừa hạ màn, quần chúng còn đang vỗ tay hoan nghênh thì ông Khu
trưởng Nguyễn Sơn nhẩy ngay lên sân khấu, đả kích vở kịch, đả kích tác
giả, đả kích đoàn kịch, đả kích cả khán giả trong hơn nửa tiếng đồng
hồ. Theo lệnh của ông, vở kịch ấy không được phép tái diễn nữa. Vở kịch
Dứt áo, lập trường đúng hay sai ở đây không bàn đến; chỉ biết rằng lối
lãnh đạo “quân phiệt” ấy đã bị anh xem văn nghệ sĩ phản ứng lại mạnh
mẽ: đoàn kịch Tiền tuyến tự giải tán.
Khoảng cuối năm
1948, trong trụ sở Xưởng hoạ Liên Khu IV ở Thanh Hoá, có một buổi sinh
hoạt toạ đàm về lý luận văn nghệ. Hôm ấy, anh em thảo luận về vấn đề
hiện thực xã hội chủ nghĩa. Ông Đặng Thai Mai, Bí thư thứ nhất Đoàn Văn
nghệ Kháng chiến Liên Khu IV, Hội trưởng Hội Văn hoá Việt Nam, đưa ra ý
kiến cho rằng ở xứ ta chưa thể áp dụng hiện thực xã hội chủ nghĩa
trong sáng tác văn nghệ được. Theo ý ông thì xứ ta chưa kiến thiết xã
hội chủ nghĩa nên chưa có cơ sở để vận dụng hiện thực xã hội chủ nghĩa.
Rồi ông dẫn những lời nói của Maxime Gorki để chủ trì rằng văn nghệ
Việt Nam chỉ nên sáng tác theo phương pháp lãng mạn cách mạng. Mặc dầu
lúc đó có ông Mai ở cương vị một người lãnh đạo văn nghệ toàn Liên Khu
IV, quan điểm của ông cũng không nhờ được uy thế đó mà khiến anh em văn
nghệ sĩ phải rắp rắp tuân theo. Các bạn dự buổi toạ đàm, sau một hồi
thảo luận, đều không tán thành ý kiến ông Bí thư thứ nhất của Đoàn Văn
nghệ Kháng chiến Liên Khu IV.
Năm 1949, trên Liên khu
Việt Bắc, Hội Văn nghệ có tổ chức một hội nghị tranh luận về thơ, tiểu
thuyết, kịch, hoạ, nhạc, nhiếp ảnh. Trong những buổi thảo luận, anh chị
em văn nghệ sĩ đều hoàn toàn tự do đề xuất và bênh vực ý kiến riêng của
mình. Ông Tố Hữu cũng tham gia nhiều cuộc tranh luận. Nhưng không có
một văn sĩ nào lại nghĩ rằng ông Tố Hữu đã đưa ra một quan điểm thì
không ai được bàn cãi nữa. Tôi thiết tưởng nếu trong hội nghị có kẻ nào
xu nịnh nhà lãnh đạo định đàn áp tự do dân chủ khi thảo luận thì chắc
là kẻ ấy sẽ bị anh em công kích và khinh bỉ.
Người văn
nghệ sĩ kháng chiến đi tìm chân lý, đi tìm chính nghĩa, đi tìm tự do
chứ không đi tìm cuộc đời nô lệ dưới hình thức này hay hình thức khác.
Lấy sáng tạo nghệ thuật để phục vụ cách mạng làm lẽ sống chủ yếu, họ
không thể sùng bái bất cứ cá nhân nào, không thể thừa nhận bất cứ uy
quyền độc đoán nào, chống lại bất cứ sức áp chế tư tưởng nào.
Với
những văn nghệ sĩ yêu chuộng tự do như thế, hễ lãnh đạo độc tài, bè
phái thì tất yếu sự phản kháng nẩy ra ngay. Đó là tình trạng văn nghệ
của ta từ sau 1949.
Một mặt, cuộc kháng chiến vĩ đại của
dân tộc mỗi ngày một tôi luyện tâm hồn văn nghệ sĩ thêm cứng cáp, rèn
rũa lập trường tư tưởng họ một ngày một thêm chính xác; đồng thời cuộc
kháng chiến đã làm nở dần ra trong bản thân họ những xúc cảm mới, phong
phú, mạnh mẽ và một ý chí phục vụ cách mạng mỗi ngày một thêm sắt đá.
Họ muốn đem tất cả tài năng, tất cả cuộc đời hiến cho nhân dân. Họ muốn
tiến hành những thí nghiệm sáng tạo nghệ thuật táo bạo phù hợp với yêu
cầu của tâm tư súc tích những căm thù và yêu nước. Như đoàn chim đã có
lông cánh, họ muốn bay vút lên tầng mây xanh thắm của lý tưởng xã hội
chủ nghĩa, mỗi người theo một hành trình độc đáo. Như trăm hoa đầy nhựa
sống, họ muốn nở tung ra, mỗi người một hương sắc riêng, giữa thanh
thiên bạch nhật của cuộc đời dân chủ tự do. Họ muốn tạo ra một nghệ
thuật xứng với một chế độ mà họ yêu quý như yêu quý vận mệnh bản thân.
Họ đòi những điều kiện thuận lợi tối thiểu để phục vụ…
Một
mặt khác, bộ phận lãnh đạo văn nghệ - cụ thể là Ban Thường vụ Hội Văn
nghệ Việt Nam và các ban thường vụ chi hội ở các khu – càng ngày càng
tiến sâu vào con đường mệnh lệnh, độc tài, quan liêu, bè phái, hẹp
hòi…, càng ngày càng trắng trợn căng lưới trên khắp các nẻo đường sáng
tác văn nghệ, định biến những văn nghệ sĩ nhiều chất sống và cá tính
thành những con cừu ngoan ngoãn, sợ sệt chịu để cho bọn chăn dắt lùa đi
ngả nào cũng được. Giống như bọn thầy bùa phong kiến, các nhà lãnh đạo
văn nghệ của chúng ta muốn “yểm” tất cả các tâm hồn cứng rắn và tự do
cho đến trở thành những hòn đất thó “tròn méo mặc dầu tay kẻ nặn”.
Những lá bùa của họ chế tạo ra kể cũng đã khá nhiều: mất lập trường,
phạm chính sách, phá đoàn kết, phá tổ chức, vô kỷ luật, chống Đảng,
địch lợi dụng, có vấn đề, bất mãn cá nhân, óc địa vị, v.v… còn gì nữa?
Và
phải nói ngay rằng ngần ấy lá bùa yểm cũng đã linh nghiệm ít nhiều.
Một số văn nghệ sĩ non gan (số ít thôi) ngã vào tay bọn thầy bùa biến
thành những tên thư lại văn nghệ xu nịnh trục lợi. Một số khác trốn vào
thái độ tiêu cực, chán nản công tác, tâm tư nặng trĩu hờn oán và uất
ức. Một số khác nữa “cất kín” cá tính và nghệ thuật xuống “đáy ba lô”,
yên lặng làm bổn phận một người công dân kháng chiến bằng bút, bằng màu
sắc, bằng dây đàn, bằng sân khấu – “đánh giặc đã!”. Còn một số không
khuất phục, kịch liệt phê phán tác phong và đường lối lãnh đạo của
thường vụ Hội thì bị chụp mũ, bị chèn ép, bị “trù”, bị hành hạ, bị gạt
sang một bên…
… Cho đến hôm nay: sự phải xẩy ra đã xẩy
ra. Nhân đã đẻ ra quả. Cuộc đấu tranh âm ỷ dai dẳng chống lãnh đạo độc
đoán, quan liêu, bè phái, trong những năm cuối kháng chiến, khi hoà bình
trở lại, đã bùng nổ. Khởi điểm là ở trong Phòng Văn nghệ Quân đội.
Trần Dần, Phùng Quán, Trần Công, Tử Phác, Hoàng Cầm v.v… đề đạt nguyện
vọng lên ban lãnh đạo yêu cầu một chế độ công tác hợp với tính chất đặc
biệt của sự sáng tạo văn nghệ, yêu cầu trao trả quyền điều khiển văn
nghệ cho văn nghệ sĩ, yêu cầu tự do trong sáng tác và sinh hoạt văn
nghệ. Các nhà lãnh đạo văn nghệ quân đội, chủ quan và độc đoán, cương
quyết đàn áp phong trào đấu tranh chính đáng ấy [1] . Kết quả là cuộc
đấu tranh càng ngày càng lan rộng. Điểm cuối cùng của nó là lớp học tập
lý luận văn nghệ tháng Tám vừa qua ở trụ sở Hội Văn nghệ. Suốt mười tám
ngày, anh em văn nghệ sĩ trong Đảng cũng như ngoài Đảng đã đứng dậy
đồng thanh tố cáo những hành động và thái độ độc tài, bè phái của ban
lãnh đạo văn nghệ. Học tập văn kiện của Đại hội 20 Đảng Cộng sản Liên
Xô (đặc biệt bản tham luận của Cholokov), học tập văn kiện “Bách khoa
tề phóng, bách gia tranh minh” của ông Lục Đỉnh Nhất, ủy viên Ban Chấp
hành Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, anh em văn nghệ sĩ càng phấn
khởi và mạnh bạo nêu cao khẩu hiệu tự do tư tưởng, trăm hoa đua nở, lấy
đó làm mục tiêu đấu tranh chủ yếu. Hôm tổng kết học tập, ông Nguyễn
Hữu Đang, đại diện giới văn nghệ sĩ, đã đọc một bản tham luận lên án
đường lối lãnh đạo độc tài bè phái của thường vụ Hội, sự việc thật là cụ
thể, lời lẽ thật là tha thiết. Ông Tố Hữu, người có trách nhiệm chính
về phong trào văn nghệ từ thời kháng chiến đến giờ, đã đứng lên sơ bộ
tự kiểm thảo về tác phong quan liêu trong lãnh đạo văn nghệ. Anh em văn
nghệ sĩ chưa thoả mãn về những lời tự kiểm thảo của ông Tố Hữu và có
yêu cầu được gặp Trung ương Đảng để trình bày nguyện vọng. Cuộc đấu
tranh còn tiếp tục… [2] .
Nguyên nhân nào đã xô đẩy các
nhà lãnh đạo văn nghệ của chúng ta vào con đường, quan liêu, độc đoán,
bè phái tai hại ấy? Nguyên nhân chính là bệnh sùng bái cá nhân. Nó phát
sinh từ lúc một số người của Đảng nắm lấy độc quyền lãnh đạo văn nghệ
bằng tổ chức.
Thực ra, Đảng lãnh đạo văn nghệ là một tất
yếu lịch sử, anh chị em văn nghệ sĩ ai cũng thừa nhận với tất cả nhiệt
tình thành thực của họ đối với Bộ Tham mưu Cách mạng đã lãnh đạo toàn
dân làm ra tháng Tám 1945, đem quyền độc lập đến cho dân tộc đang quằn
quại dưới gót phát xít Nhật, Pháp. Trông cậy vào sự giúp đỡ của Đảng để
tự cải tạo, tin tưởng vào chủ nghĩa Mác-Lênin để phát triển tài năng,
vui vẻ đứng dưới lá cờ Đảng để giết giặc cứu nước: đó là nguyện vọng
tha thiết của tuyệt đại đa số văn nghệ sĩ kháng chiến.
Văn
nghệ sĩ tin ở Đảng và mong mỏi được Đảng lãnh đạo là bởi họ hiểu rằng
Đảng đấu tranh để giải phóng dân tộc, giải phóng con người, giải phóng
sự lao động trong đó có cả lao động nghệ thuật. Họ biết rằng chủ nghĩa
Mác-Lênin là ngọn cờ tiền phong của tự do tư tưởng. Họ biết rằng một
Đảng theo chủ nghĩa Mác-Lênin là sứ giả trung thành và hăng hái nhất
của tự do tư tưởng. Họ biết rằng cái chế độ mà Đảng đang cùng nhân dân
xây dựng bằng xương máu là thiên đường của tự do tư tưởng.
Văn
nghệ sĩ kháng chiến hào hứng tiến bước theo lá cờ của Đảng tiền phong.
Nhưng trên đường đi, họ đã vấp phải một số người của Đảng trong bộ
phận lãnh đạo phong trào văn nghệ. Số người ấy đã làm họ thất vọng. Nói
cho đúng, anh em văn nghệ sĩ cũng không bao giờ phản đối sự trạng:
đảng viên nắm quyền lãnh đạo. Nếu quả là những đảng viên tốt, ưu tú,
giỏi chuyên môn lãnh đạo văn nghệ thì anh em hết sức hoan nghênh. Nhưng
sự thật những “đảng viên” ấy thế nào?
Năm 1950, chúng
tôi ở Khu IV lên Việt Bắc dự Đại hội Văn nghệ Toàn quốc. Một buổi tối,
gặp ông Tố Hữu và ông Lưu Trọng Lư ở trụ sở Hội, nhân nói đến cái
trường văn nghệ nhân dân mới lập ở Việt Bắc, một bạn nhà văn Liên khu
IV có phát biểu ý kiến cho rằng: Hội Văn nghệ Việt Nam, từ ngày thành
lập đến giờ, rất ít chú ý đào luyện cán bộ chuyên môn cho ngành mình,
ít chú ý bồi dưỡng trí thức nghiệp vụ cho văn nghệ sĩ. Rồi anh bạn kết
luận: “Lúc này mới mở trường văn nghệ nhân dân kể cũng hơi muộn so với
nhu cầu của phong trào văn nghệ. Nhưng muộn còn hơn không”. Anh vừa nói
dứt lời thì ông Lưu Trọng Lư sừng sộ nói như thét: “Anh bảo muộn là thế
nào? Bây giờ mới làm là đúng lúc lắm chứ! Sao lại muộn?” Chúng tôi
bình tĩnh nhìn Lưu Trọng Lư “đảng viên” không trả lời. Riêng đối với
tôi thì tâm lý và thái độ của ông Lư không làm tôi ngạc nhiên chút nào
vì tôi đã gặp tâm lý và thái độ ấy ở một số đảng viên khác, khá nhiều
lần. Đó là tâm lý của những kẻ “bảo hoàng hơn cả nhà vua”.
Phần
lớn, nếu không muốn nói là tất cả, những người của Đảng phụ trách lãnh
đạo văn nghệ, trong kháng chiến cũng như sau khi hoà bình lập lại, đều
có thứ tâm lý nói trên. Ở cửa miệng họ, bao giờ ta cũng bắt gặp cái
điệp khúc bất di bất dịch này: Đảng không bao giờ sai lầm. Rồi từ chỗ
nói: Đảng không bao giờ sai lầm, họ tiến đến chỗ nói: các cá nhân lãnh
đạo Đảng không bao giờ sai lầm. Đứng trước một người “quần chúng” nào
phê bình những điểm thiếu sót hoặc sai lệch của Đảng, nếu họ không bịt
tai chạy trốn được thì thế nào họ cũng phải phản ứng lại kiểu Lưu Trọng
Lư.
Những đảng viên “bảo hoàng hơn cả nhà vua” ấy cũng
thừa biết câu nói bất hủ của Lênin: “Chỉ có hai hạng người không bao
giờ phạm sai lầm: hạng người còn nằm trong bụng mẹ và hạng người nằm
trong quan tài”.
Họ cũng biết rằng xét theo một thời
gian lịch sử dài thì Đảng không sai lầm – điều này đúng – nhưng xét theo
từng giai đoạn nhỏ, từng chính sách, từng kế hoạch cụ thể thì một đôi
khi Đảng vẫn mắc sai lầm; - lắm lúc sai lầm nghiêm trọng là đằng khác
nữa.
Họ cũng biết rằng một đảng theo chủ nghĩa Mác-Lênin
không bao giờ yêu cầu hoặc dung túng, ở người đảng viên, sự nhắm mắt
phục tùng tuyệt đối cấp trên đến cái mức hủy diệt cả trí suy xét phê
phán cá nhân; trái lại lúc nào Đảng cũng đòi hỏi ở người đảng viên tính
sáng tạo tích cực, tinh thần dũng cảm phê bình và xây dựng mọi chính
sách của Đảng.
Họ cũng biết rằng chân giá trị của Đảng
Mácxít-Lêninít không phải ở chỗ không bao giờ phạm sai lầm - điều này
không thể có được - mà chính là ở chỗ khi nào phạm sai lầm thì can đảm
công bố cho quảng đại quần chúng biết là mình sai lầm, phân tích đúng
nguyên nhân của sự sai lầm và quyết tâm sửa chữa sai lầm.
Các
đảng viên lãnh đạo văn nghệ của chúng ta biết tất cả những điều sơ
đẳng ấy. Họ đã học tập những văn kiện của Đảng, đọc sách báo Đảng, được
theo lớp chỉnh Đảng. Họ lại là những người có điều kiện đọc được tác
phẩm của Mác, Lênin, Mao Trạch Đông. Làm gì họ không biết những chân lý
phổ thông ấy! Nhưng họ vẫn gào to vào tai quần chúng: Đảng không bao
giờ sai lầm; lãnh tụ này hay lãnh tụ khác không bao giờ sai lầm. Và họ
hành động, nói năng y như là họ tin thành thực rằng Đảng, lãnh tụ, các
cấp ủy không bao giờ sai lầm cả.
Tại sao họ lại tự lừa
dối như vậy? Không có gì lạ cả. Họ làm ra như vậy là vì làm thế có lợi
cho bản thân họ. Đó là những đảng viên cơ hội chủ nghĩa điển hình. Họ
theo phương châm sống: “khuất nhất nhân thân vạn thặng”. Họ sùng bái
một người (cấp trên) để vạn người (cấp dưới) sợ cá nhân họ. Nhờ phương
châm ấy, họ bám vào gót giầy cấp ủy ban này, cấp ủy ban khác, leo dần
lên thang danh lợi, oai quyền hống hách, đàn áp cấp dưới, khinh miệt
quần chúng, báo cáo lên trên thì xuyên tạc sự thực có dụng ý, lãnh đạo
anh em thì mệnh lệnh độc tài. Họ sùng bái cá nhân là để trục lợi. Họ
chỉ có thể tiến thân bằng đường lối ấy.
Cho nên, khi vị
lãnh tụ văn nghệ Tố Hữu chỉ thị bỏ những tranh tĩnh vật trong một cuộc
triển lãm tranh hội hoạ (1955) thì họ bỏ hết những tranh tĩnh vật; khi
ông Tố Hữu tấm tắc khen bức tượng "Hướng điền" của Song Văn thì họ xô
nhau vào tấm tắc khen theo; khi ông Tố Hữu chê hai bức sơn mài "Trăng
lên" và "Niềm vui" của Nguyễn Sáng trong kỳ triển lãm năm ngoái thì họ
ùa vào chê theo mặc dầu họ đã khen Nguyễn Sáng lúc ông Tố Hữu chưa cho ý
kiến; khi ông Tố Hữu viết về bản thảo tập Thơ chiến sĩ của Hồ Khải
Đại: “Đây là một tài năng mới cần cổ võ và biểu dương” thì họ nhấc tập
thơ ấy từ giải khuyến khích lên giải ba [3] . Khi ban lãnh đạo văn nghệ
quân đội biên thư cho thường vụ Hội Văn nghệ đề nghị (hay ra chỉ thị?)
bỏ cuốn Người người lớp lớp của Trần Dần “phản động”, không chấm giải,
thì họ ném Người người lớp lớp và cả nhà văn Trần Dần vào sọt giấy;
khi mở ra cuộc phê bình tập thơ Việt Bắc thì họ chỉ rắp tâm hướng dư
luận đến chỗ ca tụng ông Tố Hữu v.v… Suy xét, hành động họ nhất nhất rập
theo đúng ý kiến và sở thích của cấp trên. Họ tự tước bỏ hết cá tính,
tước bỏ trí phán đoán độc lập, tước bỏ luôn nhân cách văn nghệ sĩ. Và
do đó họ cũng đã tự tước bỏ luôn cái tư cách cần phải có của một người
cộng sản.
Phàm đã sùng bái cá nhân “cấp trên” thì tất
nhiên có tâm lý và muốn bắt những người “cấp dưới” sùng bái cá nhân
mình. Do đó sinh ra lối lãnh đạo độc đoán và bè phái. Trong số báo Nhân
dân ra ngày 8-9-1956, ông Phượng Cầu có lôi ra ánh sáng vụ Nọc rắn,
bằng chứng của thứ lãnh đạo văn nghệ độc đoán bè phái.
Vụ
Nghệ thuật giao cho Đội kịch Trung ương tập vở Nọc rắn. Khi đi nghiên
cứu nông thôn về và bắt đầu diễn tập, các diễn viên đã có ý kiến là vở
kịch này nó thế nào ấy diễn không được, nó không đúng thực tế, nó gượng
gạo, chắp vá v.v… Nhưng đồng chí Vụ trưởng xoa tay, dõng dạc bảo:
"Căn
bản vở kịch này bảo đảm là tốt rồi đấy! Không cần bàn cãi nữa!" Người
ta còn phê lên trán đội kịch ba chữ: Thiếu tin tưởng. Lúc đem diễn thử
thì ai cũng thấy là vở kịch hỏng về căn bản. “Thế là công lao ăn tập
hơn một tháng trời và gần ba triệu đồng của kế hoạch nhà nước biến thành
mây khói”. Ông Phượng Cầu thuật xong câu chuyện có viết: “Vở kịch như
người bị Nọc rắn nằm lăn ra đây.” Không! Bị Nọc rắn không phải là vở
kịch. Bị Nọc rắn không phải là ông Vụ trưởng Vụ Nghệ thuật. Bị Nọc rắn
chính là kế hoạch nhà nước 1956. Ba triệu đồng, mồ hôi nước mắt của
nhân dân đóng góp để củng cố miền Bắc, phút chốc bị cái nọc mệnh lệnh
bè phái – nguy hại hơn Nọc rắn –của ông Vụ trưởng Vụ Nghệ thuật làm cho
tiêu tán.
Những con người khinh bỉ quần chúng như thế,
phá đoàn kết như thế, hách dịch độc đoán như thế, nịnh trên chèn dưới
như thế mà bao lâu nay vẫn lãnh đạo văn nghệ, vẫn được cấp trên khen là
tốt – lại còn tuyên dương nữa! – thì không cần nói cũng biết cái không
khí văn nghệ nghẹt thở đến mức nào!
Thêm vào tư cách
lãnh đạo ấy sự hiểu biết nông cạn và lệch lạc về văn nghệ, sự áp dụng
máy móc phương châm phục vụ kịp thời, sự bắt buộc lồng một cách công
thức chủ trương chính sách vào tác phẩm nghệ thuật, sự độc quyền và bè
phái trong việc xuất bản báo, sự áp chế có tính cách hành chính hoặc
quân sự đối với những văn nghệ sĩ dám nói thực, nói thẳng, nói hết… là
ta có tất cả cái tình trạng văn nghệ ngột ngạt năm sáu năm nay. Bao
nhiêu năng lực sáng tạo văn nghệ vì thế mà quằn quại không phát triển
mạnh được.
Tôi nói không phát triển mạnh được vì rằng,
mặc dầu bị các nhà lãnh đạo kìm hãm, văn nghệ Việt Nam suốt thời kháng
chiến và sau khi hoà bình lập lại vẫn theo đà phát triển lịch sử của
Cách mạng tháng Tám mà phát triển, không sức bảo thủ nào ngăn lại được.
Vả lại, đường lối văn nghệ của Đảng, tuy chưa có hệ thống và chưa được
thể hiện ra một chính sách cụ thể, cũng vẫn là kim chỉ nam cho sự hoạt
động văn nghệ. Những phương châm dân tộc hoá, khoa học hoá, đại chúng
hoá, những khẩu hiệu thâm nhập quần chúng: khai thác vốn cũ dân tộc,
mặc dầu thực hành thiếu sót, lệch lạc hay máy móc, cũng vẫn là hướng
tiến của văn nghệ Việt Nam. Với đường lối đúng ấy, nếu lại có một chính
sách cụ thể và một tổ chức lãnh đạo tốt thì không biết những khả năng
sáng tạo của văn nghệ sĩ còn phát triển tưng bừng mạnh mẽ đến thế nào!
Tiếc thay! Các nhà lãnh đạo văn nghệ đã kìm hãm sức phát triển ấy bằng
một lề lối bè phái, độc đoán quan liêu, sùng bái cá nhân, bằng những
thói quen tâm lý còn sót lại của thời thực dân phong kiến.
Họ
đã làm trái hẳn ý muốn tốt của Đảng. Họ đã làm giảm sút phần nào uy
tín của Đảng trong một số quần chúng văn nghệ quen đánh giá Đảng qua tư
cách và hành động của những đảng viên. Họ không đủ tiêu chuẩn một cán
bộ cách mạng chứ đừng nói đến tiêu chuẩn một đảng viên cộng sản.
Đã
đến lúc phải sa thải những “nhà lãnh đạo” thiếu tư cách mà quần chúng
tuyệt đối không tin tưởng nữa để quần chúng văn nghệ tự tay mình điều
khiển công việc chuyên môn của mình một cách thực sự dân chủ.
Đã
đến lúc phải thanh toán lối đàn áp tự do tư tưởng, khinh miệt quần
chúng, mệnh lệnh, độc đoán, bè phái chủ nghĩa do bệnh sùng bái cá nhân
đẻ ra, để mở đường cho trăm hoa đua nở, trăm nhà đua nói.
Đã
đến lúc Đảng phải nghiên cứu, xây dựng và tuyên bố một chính sách văn
nghệ đúng đắn, cụ thể, sát thực tế, để tạo cho văn nghệ dân tộc một cái
đà phát triển mạnh mẽ và tự do trên chiều hướng tiến đến xã hội chủ
nghĩa, để cho các nhà văn nghệ có đủ điều kiện khách quan làm tròn sứ
mạng của họ là “kỹ sư của tâm hồn”.
Đại hội XX của Đảng
Cộng sản Liên xô đã rọi ánh sáng tưng bừng vào các tâm hồn khao khát tự
do tư tưởng, tự do sáng tác, tự do phê bình. Đại hội đã đánh thức dậy ở
họ tinh thần dũng cảm chiến đấu vì chân lý, vì tương lai cộng sản chủ
nghĩa, vì giá trị chân thực của con người. Những tâm hồn rạo rực ấy
đang đòi hỏi những điều kiện tốt để hiến dâng phần cao quý nhất của họ
cho cách mạng, cho tổ quốc, cho nhân dân. Đừng ai nghĩ thiển cận rằng
hiện nay toàn thể anh em văn nghệ sĩ đấu tranh cho tự do tư tưởng, vạch
trần những sai lầm nghiêm trọng của Hội, yêu cầu Đảng đề ra một chính
sách lãnh đạo văn nghệ đúng đắn, chỉ là vì bất mãn cá nhân, vì óc địa
vị, vì lương ít, vì muốn phá uy tín Đảng, vì có người xui dục, vì chịu
ảnh hưởng xấu của giai cấp tư sản, muốn đòi tự do bừa bãi v.v…
Không!
Văn nghệ sĩ (trừ một tối ư thiểu số) đấu tranh không phải vì những
động cơ ấy. Họ đấu tranh vì họ yêu chế độ, yêu Đảng, yêu nghệ thuật,
yêu con người. Họ đấu tranh là để cho chế độ tươi đẹp hơn, Đảng vững
mạnh hơn, nghệ thuật phục vụ Cách mạng đắc lực hơn, con người có nhân
cách cao quý hơn.
Họ muốn gì?
Họ muốn tiêu
diệt bệnh sùng bái cá nhân trong việc lãnh đạo văn nghệ đã cản trở sức
phát triển nghệ thuật, làm đau khổ con người văn nghệ sĩ, làm rã rời
tình đoàn kết thân ái trong mặt trận văn nghệ.
Họ muốn
chấm dứt lề lối mệnh lệnh, độc đoán, quan liêu, bè phái, chụp mũ, trong
sự lãnh đạo văn nghệ, giành lại quyền tự do tư tưởng bị chà đạp bấy
lâu nay; vì thiếu tự do tư tưởng thì nghệ thuật sẽ co quắp, mòn mỏi như
cụm hoa thiếu ánh sáng mặt trời.
Họ muốn công việc lãnh
đạo văn nghệ phải trả lại cho những văn nghệ sĩ – bất kể trong Đảng
hay ngoài Đảng – được quần chúng văn nghệ tự ý lựa chọn và tín nhiệm; họ
đề ra khẩu hiệu: quyền điều khiển chuyên môn trả lại cho người công
tác chuyên môn vì họ đã thấy rõ nếu không nắm được chuyên môn mà cứ chủ
quan lãnh đạo chuyên môn thì tất yếu sẽ phạm những sai lầm làm hại đến
phong trào văn nghệ.
Đề ra khẩu hiệu ấy, họ không bao
giờ có ý nghĩ muốn tách chuyên môn ra khỏi chính trị. Họ vẫn chủ trì
rằng mọi công tác chuyên môn đều phải phục vụ một đường lối chính trị
chung có lợi cho quảng đại nhân dân, nhưng họ muốn trả lại cho người
chuyên môn quyền điều khiển công việc thuộc về phạm vi chuyên môn của
họ. Có như thế, chuyên môn mới phục vụ chính trị một cách đắc lực được.
Họ
muốn Đảng có một chính sách văn nghệ “trăm hoa đua nở, trăm nhà đua
nói”, tạo ra những điều kiện tinh thần và vật chất cần thiết để họ đem
hết tài năng phục vụ cho chế độ dân chủ nhân dân tiến vững chắc lên xã
hội chủ nghĩa. Họ muốn sáng tạo ra một nền văn nghệ xứng với Cách mạng
tháng Tám, xứng với dân tộc anh hùng.
Họ muốn cùng với
toàn thể nhân dân, dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, nỗ lực củng cố
miền Bắc để làm hậu thuẫn cho cuộc đấu tranh giành thống nhất nước nhà
bằng đường lối hoà bình trên cơ sở độc lập thực sự, dân chủ thực sự.
Những
ước muốn ấy đã nổi bật lên qua mười tám ngày học tập, thảo luận, liên
hệ sôi nổi tháng Tám vừa rồi, qua bản tham luận đọc hôm tổng kết. Đó là
những ước muốn chính đáng, xây dựng.
Vấn đề chống sùng
bái cá nhân, chống lãnh đạo quan liêu độc đoán bè phái, hiện nay, là
một vấn đề rộng lớn, quan trọng. Mong rằng tất cả anh chị em nghệ sĩ
nói riêng và anh chị em trí thức nói chung đem kinh nghiệm bản thân góp
sức vào công cuộc tiễu trừ óc sùng bái cá nhân độc tài mệnh lệnh bất cứ
ở lãnh vực nào. Đó là một cách xây dựng chế độ của chúng ta hiệu
nghiệm nhất.
Để kết luận, tôi xin nhắc lại lời nói của
ông Khờ-rút-sốp vang động ở Đại hội thứ XX của Đảng Cộng sản Liên Xô:
“dũng cảm phát hiện khuyết điểm trong tất cả các lãnh vực xây dựng kinh
tế và văn hoá”.
10-9-1956
------------------------------------------------------------------
[1]Xem báo Nhân văn số I, bài "Con người Trần Dần" của Hoàng Cầm
[2]Xem báo Nhân văn số I. Bài "Đợt đầu học tập và đấu tranh của giới văn nghệ".
[3]Xem bài: “Một vài sự thật chung quanh vụ giải thưởng văn học 1954-1955”, của Yến Lan, Văn nghệ số 139.
***
No comments:
Post a Comment